Chương
IV
Lộ Trình
Tu Chứng Của Thế Tôn
Các Cảnh Giới Thiền Ðịnh -
Bảy Bước Ði Thanh Tịnh
Con Ðường Tu
Chứng Của Thế Tôn
( Tăng Chi Bộ Kinh IIIA, 411-419, bản dịch của HT. Minh Châu,
1981).
Con đường tu chứng của Thế Tôn
sắp được trình bày ở đây không phải là con đường tu
tập Thiền định ngoại đạo mà Thế Tôn đã học từ Alàra
và Uddaka, hai Thiền sư ngoại đạo chứng ngộ cao nhất
đương thời, cũng không phải là quá trình sáu năm tu khổ
hạnh với năm Tôn giả Kiều-trần-như... , mà là con đường
Thiền định tự Thế Tôn khám phá dưới cội Bồ-đề
bốn (hay bảy) tuần lễ trước ngày chứng ngộ Vô thượng
Bồ-đề.
Tăng Chi Bộ Kinh, tập IIIA, tr.
411-419, đã ghi lại rõ những lời Thế Tôn thuật lại cho Tôn
giả Anandà nghe về quảng đường Thiền định ấy.
Trước khi giác ngộ, lúc còn đang
tìm kiếm con đường, Thế Tôn đã nhận thấy con đường
xuất ly là an tịnh, nhưng rồi lại cảm thấy không hứng
khởi. Thế Tôn bèn suy nghĩ cùng độ đến sự nguy hiểm
của các dục lạc ở Dục giới (ở đời) thì sự hứng
khởi của tâm xuất ly nảy sinh, và Thế Tôn cảm thấy "đây
là an tịnh". Liền sau đó, Thế Tôn chứng đắc và an trú
Sơ thiền.
Trong khi trú Sơ thiền, thì các tưởng
liên hệ đến dục lạc vẫn có mặt. Bấy giờ, các tưởng
này, đối với Thế Tôn, đã trở thành ung nhọt, bệnh
hoạn và gây ra khổ đau. Thế Tôn liền nhiếp niệm ngưng
"tầm" và "tứ" và chứng đắc Nhị thiền. Nhưng, Thế Tôn
lại cảm thấy không hứng khởi, không giải thoát. Thế Tôn
bèn suy nghĩ cùng độ đến sự nguy hiểm của "tầm" và
"tứ", liền thấy hứng khởi, giải thoát, biết rằng "đây
là an tịnh".
Nhưng, khi trú Nhị thiền, các tưởng
cùng đi với tầm và tứ cũng còn có mặt. Bấy giờ, chính
các tưởng liên hệ tầm và tứ là ung nhọt, bệnh hoạn, gây
ra khổ đau. Thế Tôn liền rời khỏi Hỷ thiền chi và
chứng đắc Tam thiền. Thoạt đầu Thế Tôn cảm thấy không
hứng khởi, không giải thoát, Ngài bèn suy tư đến cùng độ
nguy hiểm của Hỷ thiền chi, thì liền cảm thấy hứng
khởi và giải thoát, biết rằng "đây là an tịnh". Sau
một thời gian trú Tam thiền, các tưởng cùng đi với Hỷ
vẫn tái xuất hiện, bấy giờ chính các tưởng này là ung
nhọt, là bệnh hoạn. Thế Tôn bèn từ bỏ Hỷ và Lạc
thiền chi và liền chứng đắc tứ thiền.
Thoạt đầu trú ở thiền thứ tư,
Thế Tôn cảm thấy không hứng khởi, giải thoát. Sau đó
Thế Tôn suy tư cùng độ đến nguy hiểm của Lạc thiền
chi (Tam thiền) thì cảm thấy hứng khởi, giải thoát của
xả niệm lạc trú (Tứ thiền) và biết rằng "đây là an
tịnh".
Trong khi an trú Tứ thiền, xả
lạc, xả khổ, thì các tưởng cùng đi với lạc vẫn hiện
hành, bấy giờ chính lạc là ung nhọt bệnh hoạn. Ngài bèn
đi ra khỏi các sắc tưởng, chấm dứt hoàn toàn sắc tưởng,
không tác ý đến các tưởng sai biệt và liền chứng đắc
Không vô biên xứ định. Lúc đang trú ở Không vô biên xứ
định, Thế Tôn cảm thấy không hứng khởi không giải thoát.
Thế Tôn bèn suy nghĩ cùng độ đến nguy hiểm của các tưởng,
liền cảm thấy hứng khởi, giải thoát và biết rằng "đây
là an tịnh".
Sau một thời gian trú Không vô biên
xứ định, các sắc tưởng vẫn còn khởi lên, bấy giờ
sắc tưởng là ung nhọt, là bệnh hoạn như là khổ đau đến
với người đang sung sướng. Thế Tôn bèn từ bỏ hoàn toàn
Không vô biên xứ định, và chứng đắc Thức vô biên xứ
định. Lúc đầu chứng đắc, Thế Tôn cảm thấy không
hứng khởi, không an tịnh và không giải thoát, Ngài bèn suy
nghĩ cùng độ đến sự nguy hiểm của Không vô biên xứ định
và liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh, giải thoát, biết
rằng "đây là an tịnh".
Sau một thời gian trú Thức vô biên
xứ định, các tưởng liên hệ đến Không vô biên vẫn
hiện hành, bấy giờ đối với Thế Tôn, các tưởng ấy là
ung nhọt, là bệnh hoạn, như là khổ đau đối với người
đang sung sướng. Thế Tôn bèn từ bỏ Thức vô biên xứ và
chứng đắc Vô sở hữu xứ. Lúc đầu chứng đắc, Ngài
cảm thấy không hứng khởi, không an tịnh, giải thoát, Ngài
bèn tư duy cùng độ đến sự nguy hiểm của Thức vô biên
xứ và liền cảm thấy hứng khởi giải thoát, biết rằng
"đây là an tịnh".
Sau một thời gian trú Vô sở
hữu xứ định, các tưởng liên hệ Thức vô biên xứ lại
khởi lên, bấy giờ tưởng này đối với Thế Tôn là ung
nhọt, là bệnh hoạn như là khổ đau đến với người đang
sung sướng. Ngài bèn từ bỏ hoàn toàn Vô sở hữu xứ, và
liền chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lúc đầu
chứng đắc Thế Tôn cảm thấy không hứng khởi, không an
tịnh giải thoát. Ngài chuyển sang suy nghĩ cùng độ đến
nguy hiểm của Vô sở hữu xứ và cảm thấy hứng khởi, an
tịnh giải thoát, biết rằng "đây là an tịnh".
Sau một thời gian trú Phi tưởng
phi phi tưởng xứ định, các tưởng liên hệ đến Vô sở
hữu xứ lại xuất hiện, bấy giờ đối với Thế Tôn, các
tưởng này là ung nhọt, là bệnh hoạn như là khổ đau đến
với người đang sung sướng. Rồi Thế Tôn lại từ bỏ Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định ra đi và liền chứng đắc
Diệt thọ tưởng định. Dù biết rằng "đây là an tịnh",
lúc đầu chứng đắc, Thế Tôn vẫn cảm thấy không hứng
khởi, không giải thoát. Ngài bèn suy nghĩ cùng độ đến
nguy hiểm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ định thì liền
cảm thấy được lợi ích của Diệt thọ tưởng định
với tâm hứng khởi, an trú và giải thoát. Thế Tôn thấy
"đây thật là an tịnh".
Sau một thời gian trú Diệt thọ
tưởng định, Thế Tôn thấy với trí tuệ rằng tất cả các
lậu hoặc đều đi đến tận diệt. Sau khi thuận thứ và
nghịch thứ chứng đắc, an trú và xuất khởi nhuần
nhuyễn chín cảnh Thiền định kể trên, Thế Tôn mới tuyên
bố ngài đã chứng đắc "Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác".
Lộ trình tu chứng của Thế Tôn
là lộ trình liên tục từ bỏ, ra đi, liên tục giác tỉnh
rằng các cảnh giới Thiền vẫn là bệnh hoạn và u nhọt
đem lại khổ đau. Tất cả cảnh giới ấy do công phu tác
thành đều là hữu vi vô thường. Ngài liên tục khởi lên
ưu tâm tìm kiếm đến giải thoát chân thực bằng chính trí
tuệ và nỗ lực của tự thân. Ưu tâm ở đây không phải
phiền não mà là một thức tĩnh, một sức mạnh cần
thiết để đi ra khỏi dính mắc các cảm thọ, các tưởng,
các cảnh giới Thiền định hữu vi.
* Một bài học về thực hiện
Thiền định Phật giáo đặc biệt quý giá được rút ra
từ kinh nghiệm Thiền định của Thế Tôn là thường giữ
niệm tỉnh giác về thực tính vô ngã, vô thường, khổ đau
của các pháp, giác tỉnh về mục đích đoạn tận khổ đau
và giác tĩnh về vị trí đang là của hành giả để vận
dụng đúng pháp đi sâu vào Thiền định.
* Một bài học khác nữa là hành
giả cũng cần giác tỉnh về mục đích chiến thuật của
từng giai đoạn tu tập, đó là nuôi dưỡng bền bỉ niềm
phấn khởi, an tịnh và giải thoát. Phương cách để an trú
vững chắc trong phấn khởi an tịnh ở một cảnh Thiền là
suy nghĩ cùng độ đến khía cạnh nguy hiểm của cảnh
giới hay cảnh Thiền thấp hơn nó một bậc. Chính từ cái
thấy nguy hiểm, vô thường, khổ đau của một cảnh giới
thì tâm yếm ly, ly tham cảnh giới ấy mới sinh khởi. Tâm
từ bỏ cảnh giới ấy sinh khởi có nghĩa là tâm của
cảnh giới Thiền cao hơn một bậc xuất hiện. Cứ thế, hành
giả đi hết quãng đường Thiền định.
* Bài học thứ ba là, chừng nào
tưởng uẩn và thọ uẩn còn có mặt thì các tưởng về
cảnh giới vừa đi qua thường xuất khởi trở lại gây nên
ưu não cho hành giả. Hành giả phải liên tục từ bỏ các
cảm thọ, các tưởng cho đến khi các thọ tưởng không còn
điều kiện sinh khởi nữa, như ở Diệt thọ tưởng định.
Bấy giờ điều kiện gây nên ưu não không còn nữa, hành
giả đang bước đi bước cuối cùng dập tắt toàn bộ
lậu hoặc khổ đau.
Ðoạn diệt tưởng uẩn, có nghĩa
là đoạn diệt Năm uẩn. Năm uẩn diệt là thế giới của
khái niệm, của tướng trạng sinh diệt diệt, hay toàn bộ
Khổ uẩn diệt (Năm uẩn là khổ).
* Bài học thứ tư là điều mà
một số Thiền sư giữ tâm Không, giữ Vô niệm, Vô trụ,
thực nghĩa của nó là chánh niệm tỉnh giác rời khỏi
chấp thủ các uẩn, trực tiếp là rời khỏi tưởng và
thọ uẩn. Từ bỏ, không chấp thủ ở đây không phải là
đi vào trống rỗng mà là thường trú niệm trong chánh
niệm tỉnh giác và thường ở trong trạng thái tâm lý đầy
phấn khởi, an trụ và giải thoát. Chính sự dừng lại hay
đắm trước, hoặc chấp thủ một cảnh giới mới là đi vào
các bệnh hoạn, khổ đau và rỗng không của tâm lý.
* Bài học thứ năm là, Thiền định
chính là chánh niệm tỉnh giác đi ra các vọng động của tâm
thức mà không phải là thế ngồi, không phải là hơi thở
vào ra, không phải là kỹ thuật thở hoặc kỹ thuật vận
chuyển của tay chân, không liên hệ đến các thứ chứa đựng
trong bao tử, ruột non, ruột già, không phải là kết quả
của sự cầu nguyện, cầu xin hay ban ân, không phải là
kết quả của một sự hành xác nào, cũng không phải là
kết quả của sự thụ động không làm gì cả. Ðịnh và
tuệ là kết quả của chánh niệm tỉnh giác qua công phu
Thiền chỉ và Thiền quán. Kết quả ấy cụ thể là các
cảnh giới Thiền mà hành giả đi qua sắp được đề cập
đến ở phần trình bày kế tiếp.
Các Cảnh Giới Thiền Ðịnh
Truyền thống Kinh tạng của các
bộ phái thường đề cập đến chín cảnh giới định
gồmTứ sắc định, Tứ không định, và Diệt thọ tưởng
định.
Sơ Thiền:
Hán tạng định nghĩa Sơ thiền là
"ly sanh hỷ lạc". Ly ở đây có nghĩa là rời khỏi các
dục lạc (các lạc ở dục giới).
Kinh bộ (Nikàya), khắp năm bộ
kinh, định nghĩa Sơ thiền là "ly dục, ly ác pháp, bất
thiện pháp". Nội dung cụ thể là rời khỏi Năm triền cái:
trạo cử, hôn trầm, dục, sân và nghi như đã được trình
bày ở Chương II. Nói cách khác, khi trạo cử chìm lặng, thì
lạc khởi; khi hôn trầm tan, thì tầm tâm sở xuất hiện;
khi dục tiêu thì xả và nhất tâm hiện; khi sâu lắng thì
hỷ sanh; khi nghi hết thì tứ tâm sở đến. Khi cả Năm
triền cái được thay thế bằng năm Thiền chi thì hành
giả vào định Sơ thiền, cảm nhận sự phấn khởi và an
tịnh.
Nhị Thiền:
Hán tạng định nghĩa Nhị thiền
là "định sanh hỷ lạc". Ở Sơ thiền, tầm và tứ tâm
sở hoạt động nên tâm lý ở vào trạng thái động, nhẹ
về định. Khi hành giả rời khỏi tầm và tứ thì có định
của Nhị thiền.
Kinh bộ xác định trạng thái tâm
lý của Nhị thiền gồm có ba Thiền chi: hỷ, lạc và nhất
tâm (hay hỷ lạc, xả và nhất tâm). Cảm thọ nổi bật
của Nhị thiền là hỷ, đấy là trạng thái thoải mái
của tâm.
Tam Thiền:
Hán tạng định nghĩa Tam thiền là
"ly hỷ diệu lạc". Rời khỏi hỷ và vào được lạc sâu
hơn.
Kinh bộ xác định tâm lý của
Tam thiền gồm có hai Thiền chi: lạc và nhất tâm. Lạc là
trạng thái thoải mái của thân. Hỷ, lạc ở Tam thiền có
những rung động sâu hơn ở Nhị thiền.
Tứ Thiền:
Hán tạng định nghĩa Tứ thiền
là "xả niệm thanh tịnh". Xả niệm ở đây có nghĩa là
xả các cảm thọ lạc, khổ, đi vào thanh tịnh.
Kinh bộ cũng định nghĩa tương
tự: xả lạc, xả khổ, dứt hỷ ưu. Hai Thiền chi của Tứ
thiền là xả và nhất tâm. Tứ thiền sắc định và Tứ không
được gọi là Ðịnh bất động, luôn luôn có mặt hai
Thiền chi: xả và nhất tâm.
Sơ thiền có tầm, tứ nên tâm
dao động. Ở Nhị thiền, hỷ gây ra tâm lý dao động. Tam
thiền, lạc tuy trầm nhẹ hơn hỷ nhưng vẫn gây dao động
tâm lý. Nên cả ba Thiền đầu đều không được gọi là
định bất động.
Ở Tứ thiền, hành giả đã có
thần thông có thể đi trong nước, trong lửa, có thể với
tay đến mặt trời, mặt trăng, có thể bay lên cõi trời
Phạm thiên... Tâm lý ở đây nhu nhuyến nên hành giả dễ
dẫn tâm, hướng tâm vào Tứ không định, và dễ vận
dụng vào Thiền quán để đoạn trừ tham ái, vô minh.
Thiền lạc của Tứ thiền bảo dưỡng rất tốt cho sức
khỏe và đôi mắt của hành giả.
Không Vô Biên Xứ Ðịnh:
Từ Tứ sắc định, hành giả
khởi tưởng "không gian là vô biên" cho đến khi nhuần
nhuyễn liền chứng Không vô biên xứ định (cõi định đầu
tiên của cõi Vô sắc). Do vì tâm lý của hành giả khởi lên
niệm chán ngán, yếm ly sắc, mà tu tập đi vào Vô sắc.
Thức Vô Biên Xứ Ðịnh:
Từ không vô biên xứ định, do
khởi niệm nhàm chán "không gian là vô biên", hành giả
khởi tưởng "Thức là vô biên", và sau một thời gian
liền chứng Thức vô biên xứ định.
Ðọc lại lộ trình tu chứng
của Thế Tôn, ta sẽ rõ những động cơ thôi thúc hành
giả đi tới các định cao hơn.
Vô Sở Hữu Xứ Ðịnh:
Từ Thức vô biên xứ định, hành
giả khởi tưởng "không có vật gì cả" sẽ đắc Vô sỡ
hữu xứ định do nhờ từ bỏ tưởng "Thức là vô biên".
Thông thường kinh bộ khuyến cáo
hành giả nên dừng lại ở định này tu tập Tứ vô lượng
tâm (từ, bi, hỷ, xả) để vào thẳng Diệt thọ tưởng định
mà không đi ngang qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ định,
bởi vì, ở định Phi tưởng phi phi tưởng chỉ có tưởng
rất nhỏ nhiệm có mặt rất khó cho hành giả hành Thiền
quán để đoạn tận Tham và Vô minh lậu hoặc.
Tại đây, hành giả hành Thiền
quán rải từ tâm, bi tâm, hỷ tâm và xả tâm khắp đến mười
phương hư không. Năng lực đại từ, đại bi, đại hỷ và
đại xả ấy là sức mạnh đưa hành giả vào Diệt thọ tưởng
định.
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Ðịnh:
Từ Vô sở hữu xứ định, nếu
hành giả rời khỏi tưởng "Vô sở hữu", tác ý "không có
tưởng cũng không phải không có tưởng" thì sau một thời
gian hành giả sẽ chứng đắc định Phi tưởng phi phi tưởng.
Ở cảnh giới Thiền này tưởng có mặt rất tế đến
nổi nói có tưởng cũng không hẳn, nói không có tưởng cũng
không đúng, cho nên có tên gọi là "Phi tưởng phi phi tưởng".
Kinh bộ thường khuyến cáo hành giả nên tránh vào cảnh
giới định này, bởi vì tại đây có rất ít điều kiện
để đoạn trừ lậu hoặc.
Diệt Thọ Tưởng Ðịnh:
Gọi định này là định Diệt
thọ tưởng, do vì khi chứng nhập định này hơi thở dứt
(thân hành diệt), tầm tứ dứt (khẩu hành diệt) và đặc
biệt là thọ, tưởng dứt (tâm hành diệt). (Theo "Hữu Minh
Tiểu Kinh", Trung Bộ I, tr .302, bản dịch của HT. Minh Châu,
1973).
Ở đây thọ uẩn và tưởng uẩn
diệt nên thật khó để đề cập đến định này. Vì
vậy, chỉ có thể trình bày một ít nét đại cương. Khi vào
Diệt thọ tưởng định thì khẩu hành, thân hành và ý hành
diệt theo thứ tự đó. Hành giả không hề nghĩ rằng: "Tôi
đang chứng Diệt thọ tưởng định", do vì vị ấy trước
đó tu tập như vậy nên dẫn đến kết quả như vậy
(Ibid., tr.302).
Khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định,
hành giả không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ ra khỏi Diệt thọ
tưởng định", hoặc "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng
định". Nhưng, khi ra khỏi định này thì tâm hành, thân hành
và khẩu hành lại theo thứ tự này khởi lên trở lại.
(Ibid., tr.302).
Ðặc biệt khi ra khỏi Diệt thọ
tưởng định thì hành giả cảm nhận ba loại xúc: Không xúc
(cảm xúc vô ngã), Vô tướng xúc (vô thường), và Vô
nguyện xúc (không đưa đến khổ, hành giả nhận rõ
Niết-bàn không có tham, sân, si) và có khuynh hướng độc cư
( Ibid., tr. 302).
Chính tại định Diệt thọ tưởng,
một khi hành giả đã chứng nhuần nhuyễn định này thì
tất cả lậu hoặc tiêu. Chánh trí phát khởi và chứng đắc
vô lậu Niết-bàn.
Qua phần trình bày lộ trình tu
chứng của Thế Tôn trải qua chín cảnh giới định, và qua
các định mà Thế Tôn dạy cho các đệ tử về sau, chúng
ta nhận ra một điểm nhất quán rằng: từ cảnh giới định
này bước vào một cảnh giới định cao hơn, hành giả
cần khởi tâm từ bỏ. Tâm từ bỏ có thể do hai động cơ:
hoặc khởi tâm mong muốn đi vào sâu trong cảnh giới định
mà từ bỏ giới định đang trú, hoặc thấy tướng vô thường
và khổ đau của định đang trú mà khởi tâm nhàm chán từ
bỏ ra đi. Ra đi là đi vào định cao hơn. Năng lực giác
tỉnh mạnh mẽ nhất và có tính "Phật giáo" nhất là luôn
nhận thức rõ khổ đau của cảnh giới đang là, như chính
chúng ta đang nhận rõ khổ đau của kiếp người, để phát
khởi tinh tấn lực và tăng cường niệm giác tỉnh đi vào
giải thoát. Nhận thức này rất phù hợp với điều mà
Thế Tôn thường nhấn mạnh: "Ta chỉ dạy rõ khổ đau và
con đường đoạn tận khổ đau".
Do vậy, hành giả cần thường giác
tỉnh khổ đau và giác tỉnh đi ra khỏi cảm thọ khổ đau
trong hiện tại. Thường giác tỉnh như thế không có nghĩa
rằng suốt con đường ta đi luôn luôn đối mặt với khổ
đau hay luôn luôn cảm nhận khổ đau. Thực sự, con đường
Thế Tôn và các đệ tử của Ngài đi qua đã đầy phấn
khởi, tịnh lạc và giải thoát. Cũng thế chính tại đời
sống này ta nuôi dưỡng niệm giác tỉnh đời là vô thường,
khổ đau, đồng thời ta vẫn có thể đón nhận các nguồn
hỷ lạc và giải thoát.
Bạn cần trầm tư nhiều lần
về mục tiêu và con đường Thiền định để nhận ra như
thế nào là Thiền định Phật giáo? Và nó cần thiết đến
như thế nào đối với chúng ta trên đường về an lạc và
hạnh phúc?
Nhận ra được tính Phật giáo và
tính cần thiết nói trên là chúng ta đã phân định rõ ràng
giữa con đường đúng và con đường sai, giữa Thiền định
Phật giáo và các nẻo Thiền định khác mà Chương V của
cuốn sách nhỏ này sẽ trình bày.
Bảy Bước Ði Thanh Tịnh
Chúng tôi đã giới thiệu con đường
thực hiện Tứ Niệm Xứ, pháp môn điều hòa Chỉ và Quán
tự pháp hành. Con đường ấy, theo lời dạy của Thế Tôn,
thích hợp với hầu hết các căn cơ tu tập. Theo pháp thực
hành ấy, hành giả phát triển sự chú tâm chuyên sâu dẫn
vừa vào tâm thanh tịnh loại bỏ các tạp niệm, vừa loại
bỏ Năm triền cái, lần lượt vào Sơ thiền, Nhị thiền,
Tam thiền, Tứ thiền. Từ căn bản của Tứ sắc định, hành
giả hành Thiền quán Ba pháp ấn hay Năm uẩn. Có thể thực
hiện Thiền quán trên dòng tâm lý và cảm thọ bấy giờ. Hành
thật chuyên sâu, với sự chú tâm chuyên sâu được thực
hiện nhiều lượt, hành giả sẽ thấy rõ tướng vô thường,
khổ đau và vô ngã của thân, tâm và các pháp hữu vi, sẽ
lần lượt đoạn trừ Mười kiết sử (thân kiến, nghi,
giới cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo
cử và vô minh) và chứng đắc các thánh quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm và A-la-hán quả giải thoát của đời sống Phạm
hạnh.
Lộ trình tu tập của đức Thế
Tôn thì thể hiện Thiền chỉ và Thiền quán song tu rất là
thiện xảo. Chúng ta, dù chọn phương tiện tu là "chỉ"
hay "quán", cũng cần trầm tư về những bước chân đi
của Ngài.
Nay, để tăng thêm điều kiện
tham cứu cho quí bạn đọc, chúng tôi xin cẩn trọng giới
thiệu bảy bước đi thanh tịnh của Thiền định Phật giáo
- có thể gọi là bảy bước đi hồng ngọc - dựa vào Thanh
Tịnh Ðạo Luận của Ðại Luận sư Phật Âm qua bản "The
Path of Purification" (Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka,
1979) và dựa vào bản Thăng Tiến Tuệ Giác của Ðại sư
Mahasi Sayadaw (The Progress of Insight, by Mahasi Sayadaw, Buddhist
Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 1978).
Bước 1: Cấp độ thanh tịnh
giới
Dù hành giả tu tập lấy Thiền
chỉ (Samatha) làm phương tiện hay lấy Thiền quán (Vipassana)
làm phương tiện thì cũng cần thực hiện thanh tịnh giới
trước khi đi vào công phu Thiền định.
Nếu là cư sĩ thì giữ gìn nghiêm
tịnh Ngũ giới, Thập thiện giới, hay Bát quan trai giới mà
hành giả đã lãnh thọ. Nếu là tu sĩ, thì hành giả giữ gìn
giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa: 250 giới, 225 giới, hay 350
giới.
Nhờ giới thanh tịnh, hành giả
tránh được nhiều rối loạn từ bên ngoài đem lại, và
ổn định một phần nội tâm.
Bước 2: Cấp độ thanh tịnh tâm
Hai căn cơ tu tập Thiền chỉ hay
Thiền quán đều phải thành tựu cấp độ thanh tịnh tâm này.
Hành giả hành chú tâm chuyên sâu
trên 16 đối tượng đã được giới thiệu ở Chương I, II
và III. Chỉ thực hiện sự chú tâm theo dõi chuyên sâu,
thế nào trong thời gian hành Thiền mỗi thời kéo dài
chừng 60 phút mà làm lắng tịnh hết các tạp tưởng - các
tưởng "lạc điệu" khởi lên cắt dứt sự chú tâm của
mình.
Chướng ngại của bước tu tập
này chính là các tạp tưởng (thuộc trạo cử). Nếu hành
giả hành nhiều thời ngồi 60 phút ấy và nhiếp phục được
các tạp tưởng một cách ổn định thì gọi là thành tựu
bước đi thanh tịnh thứ hai: thanh tịnh tâm.
Bước 3: Cấp độ thanh tịnh
kiến
Từ cấp độ này đến cấp độ
thanh tịnh cuối cùng là thuộc pháp hành của Thiền quán
dựa vào sự chú tâm.
Hành giả tiếp tục huấn luyện
sự chú tâm chuyên sâu theo dõi đường hơi thở vào ra, và
theo dõi tâm theo dõi, cho đến khi nhận ra rằng cái gọi là
ta và thế giới thực sự chỉ là các quá trình vật lý và
tâm lý quyện vào nhau:
- Một quá trình vật lý của hơi
thở vào và hơi thở ra: không có cái ngã của hơi thở
ra, hơi thở vào; và không có mặt cái ta của hành giả
trong quá trình vật lý đó.
- Một quá trình tâm lý nhận
biết về hơi thở vào, hơi thở ra, và nhận biết về
sự nhận biết trên: không có cái ngã gọi là nhận
biết, và không có mặt cái ta của hành giả trong quá trình
tâm lý.
Hành giả chú tâm quan sát như
vậy nhiều lần cho thật nhuyễn.
Nhận biết như vậy là thành
tựu bước đi thanh tịnh thứ ba: thanh tịnh kiến.
Bước 4: Cấp độ thanh tịnh do
thắng vượt nghi ngờ
Khi thanh tịnh kiến đã thực
hiện, hành giả tiếp tục chú tâm chuyên sâu và lan rộng
ra các quá trình hoạt động của thân và tâm. Trước chú tâm
chuyên sâu ấy, các quá trình vận chuyển của thân và tâm
sẽ tự nó hiện rõ, mà không cần đến khả năng suy
diễn. Hành giả quan sát cho đến khi thấy rõ sự sinh
khởi, sự tồn tại, và sự tan rã của các quá trình tâm lý
(tư tưởng, cảm thọ buồn, vui...) ấy. Cứ một quá trình
tâm lý mới khởi lên, hành giả lại đặt sự chú tâm vào
và theo dõi cho đến khi thấy thật thành thục sự sinh
khởi, sự tồn tại và sự biến mất của chúng.
Bấy giờ hành giả bừng sáng ra
rằng không có mặt bất cứ một tự ngã nào ở đời cả,
ngoài các quá trình thân, tâm năng duyên và thân, tâm bị
duyên.
Các quá trình khởi, diệt của thân
tâm được chú tâm theo dõi sẽ tự phô bày sự thật
rằng: tất cả hiện hữu đều đi đến chỗ tan biến, nghĩa
là vô thường; tất cả đều dẫn đến khổ đau trong ý
nghĩa chúng bị tan rã, và tất cả đều không có tự ngã nào
cả.
Tại đây, hoạt động lý luận,
suy diễn bắt đầu can thiệp. Hành giả suy diễn: tất cả
hiện hữu do các duyên hợp thành đều vô thường, dẫn đến
khổ đau và đều vô ngã.
Ở cấp độ thực hành này, hành
giả phát triển định lực mạnh hơn, cái nhận biết do chú
tâm quan sát sắc bén hơn, lòng tin thuộc tuệ giác trở nên
mạnh hơn, hỷ tâm khởi lên ở nhiều cấp độ mạnh, yếu
khác nhau, tâm tỉnh lặng xuất hiện và hạnh phúc (lạc thú)
hay gọi là thanh tịnh do thắng vượt nghi ngờ.
Bước 5: Cấp độ thanh tịnh qua
thấy biết những gì là Ðạo và những gì là không phải
Ðạo.
Khi đạt được hỷ lạc ở bước
đi thanh tịnh thứ tư , hành giả đi đến một cảm nhận
rằng: chỉ có bây giờ ta mới thực sự thấy hạnh phúc
(lạc thú) của Thiền định. Tại đây, hành giả cần
cảnh giác và cần lưu ý thực hiện mấy điểm cần yếu
sau đây:
- Không khoe khoang kinh nghiệm
vừa sở đắc.
- Tiếp tục công phu chú tâm ở
mức độ vừa phải, đều đặn, không buông lơi cũng không
nỗ lực căng thẳng.
- Cần nhận rõ ràng cảm giác
hỷ lạc ấy là chướng ngại việc thực hiện phát
triển Thiền quán, tuệ giác. Cần giác tỉnh và trú xả
(giữ tâm tỉnh lặng).
Ðây là bước đi thanh tịnh thứ
năm do thấy biết Ðạo và phi Ðạo.
Bước 6: Cấp độ thanh tịnh do
thấy biết quá trình thực hành
Hành giả tiếp tục hành chú tâm
theo dõi chuyên sâu và giữ tâm trú xả. Dần dần hành giả
đi đến chỗ thấy biết không phải toàn bộ quá trình sinh
khởi, tồn tại và tan rã, mà chỉ thấy rõ hiện tượng
tan rã của các quá trình thân tâm. Các hiện hữu giờ đây
hầu như đều vắng mặt, không còn hiện hữu nữa. Sự chú
tâm do đó trải qua một thời gian lặn mất đối tượng
theo dõi khiến hành giả có cảm nhận in như mất Thiền quán,
vắng tuệ giác. Cần giác tỉnh tiếp tục công phu thực hành,
không dao động.
Thế rồi hành giả kinh nghiệm
hễ có một đối tượng được chú tâm thì nó liền tan rã,
và sự chú tâm lặn mất. Có thể hành giả sẽ trải qua
những cảm nhận sợ hải, khổ đau vì cái thấy "tan rã"
đó. Nhưng cứ giữ tâm giác tỉnh, hành giả sẽ khởi tâm
nhàm chán các hiện hữu, không ham muốn bất cứ gì, rồi
khởi niệm mong muốn giải thoát ra khỏi hết thảy các pháp
hữu vi.
Tiếp tục công phu chú tâm cho đến
lúc thành thục, cái thấy biết các pháp hữu vi của hành
giả sẽ trở lại rõ ràng trong trạng thái tâm lý thanh
tịnh: chúng là vô thường, đưa đến khổ đau và không có
tự ngã. Bấy giờ thấy biết rất tự nhiên và rất thanh
thản; không vận dụng chú tâm mà chú tâm vẫn mạnh mẽ,
không chấp trước mọi cấu thành (hữu vi) và nhận ra
giải thoát là sự bặt dứt các cấu thành. Ðó là Niết-bàn.
Thấy biết thanh tịnh này cần
được thực hiện cho đến lúc chín muồi. Ðó là bước đi
thanh tịnh thứ sáu; thấy biết quá trình tu tập.
Bước 7: Cấp độ thanh tịnh do
Biết và Thấy.
Hành giả tiếp tục bước đi
thứ sáu với sự tập trung trọn vẹn thì sẽ đi đến xả
bỏ hoàn toàn sự chấp trước mọi cấu thành (mọi pháp
hữu vi) đi vào các Thánh đạo và Thánh quả. Có thể từ bước
công phu này tu tập hoàn thành Năm căn, Năm lực (tín, tấn,
niệm, định, và tuệ) cho đến quả A-la-hán.
* * *
Nếu hành giả lấy Thiền chỉ làm
phương tiện tu tập thì sẽ đi vào định nhanh hơn. Tiếp
tục nhiếp niệm trên một đối tượng gọi là Kasina từ bước
đi thanh tịnh tâm, sẽ lần lượt vào Sơ thiền cho đến Vô
sở hữu xứ (không nên vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ).
Hành giả Thiền chỉ có thể
dừng ở Tứ sắc định mà hành Thiền quán Ba pháp ấn, hay
Năm thủ uẩn để vào các thánh quả. Hoặc từ Vô sở
hữu xứ định hành Bốn vô lượng tâm để vào Diệt thọ
tưởng định. Tại đó, Chánh trí giải thoát xuất hiện.
Giữa căn cơ tu Thiền chỉ và
Thiền quán thực ra chỉ có điểm khác biệt căn bản là:
- Nếu hành giả hành Thiền quán
ngay từ đầu không chờ vào cận định hay toàn định, thì
gọi là căn cơ thuần Thiền quán.
- Nếu chỉ hành Thiền quán từ
Tứ sắc định, hay từ Vô sở hữu xứ định thì gọi là
căn cơ hành Thiền chỉ.
Nếu hành Thiền quán như là phương
tiện tu tập thì hành giả sẽ khá chậm vào định, có khi
rất chậm. Trong trường hợp này, hành giả đừng nóng lòng,
đừng mong chờ đắc định, chỉ theo dõi công phu phát
triển Thiền quán, phát triển tuệ giác, hành giả cũng sẽ
vào các Thánh quả khi công phu Thiền quán đi đến chín
muồi.
Trên đây là một số nét tổng lược
về công trình Viết về Thiền định Phật giáo của hai
vị Thiền sư lỗi lạc của Phật giáo thế giới: Thiền sư
vừa là Luận Sư Phật Âm (người Ấn Ðộ) và đại lão
Mahasi Sayadaw (người Miến Ðiện). Trong khi đó, Thiền định
Phật giáo còn được phát triển tùy theo căn cơ hoàn cảnh
của những con người, những địa phương, tạo thành
những sắc thái đa dạng, phong phú như trường hợp Phật
giáo Thiền ở Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên,
Nhật Bản./.
-oOo-
Chương
trước | Mục lục | Chương
kế |