Chương
I
Nhận
Thức Cơ Bản Về
Con Ðường Thiền Ðịnh Của Phật Giáo
Trước khi đi vào
phần thực hiện Thiền Ðịnh Tứ Niệm Xứ, thiết tưởng
chúng ta cần ổn định một số nhận thức về con đường
Thiền định của Phật giáo. Từ những nhận thức đúng và
tư duy đúng về Thiền định, ta dễ có những bước thực
hiện có kết quả tốt đẹp về nó.
Từ lâu, có người cứ ngỡ
Thiền như là một tông phái Phật giáo. Thiền đến với
thế hệ chúng ta như là chỉ có Thiền Công Án (hay Thiền
Tổ sư). Những hình ảnh quen thuộc với Thiền là những
tiếng bổng, tiếng hét, tiếng quát, là những câu nói bí
hiểm đầy ẩn dụ, hay là những lời dạy ngắn ngủi gọi
là "thoại đầu" hay "thoại vĩ", là những hình ảnh phóng
khoáng, tự do của các Thiền sư "thỏng tay vào chợ", là
hình ảnh "chích lý Tây qui" (đi về Tây Trúc với một
chiếc dép cỏ trên vai), là các bài kệ truyền thừa hay
những mẫu đàm thoại ngắn giữa một Thiền sư và một người
hỏi đạo. Thiền đến với ta với ý nghĩa của "Giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật" (truyền riêng ngoài giáo, không lập
văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật).
Hoặc với ý nghĩa của "Ða ngôn đa quá chuyển bất tương
ứng, tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất Thiền" (nói nhiều
thì lỗi nhiều trở nên không hợp, bặt nói năng bặt suy
nghĩ thì không đâu là không Thiền). Thiền đến với ta như
là một pháp tu đặc biệt chỉ dành cho hàng căn tánh đặc
biệt.
Tại Việt Nam, trong mấy thập niên
gần đây các sách Thiền có ảnh hưởng phổ biến nhất là
các cuốn viết về các Thiền sư Trung Hoa, cuốn Thiền
Luận (Essays in Buddhist Meditation) của D.T. Suzuki, và cuốn
Thiền Ðại Ðạo Tu Tập (Zen Practice) của Chang Cheng Chi (Trương
Trừng Cơ). Ðây là ảnh hưởng tốt.
Bên cạnh ảnh hưởng của Thiền
Công án ấy, còn có các hiện tượng "Thiền xuất hồn",
"Thiền chữa bịnh" v.v... xuất hiện cùng với làn sóng dư
luận rằng tu Thiền thì dễ điên, dễ lạc đạo, dễ "tẩu
hỏa" v.v...
Một số người thì cho rằng
muốn tu Thiền thì phải buông tha hết các công việc gia đình,
xã hội, bỏ hết việc học hành, đi vào ở ẩn một nơi nào
thật xa vắng. Thiền gắn liền với đời sống núi rừng.
Thật là đầy dẫy các ngộ
nhận lớn về con đường Thiền định của Phật giáo. Thượng
tọa W. Rahula, trong cuốn " Những Ðiều Ðức Phật Dạy"
(What the Buddha Taught), đã viết: "Thật không may rằng hầu
như không có ngành nào của giáo lý đức Phật bị các
Phật tử và những người khác hiểu lầm như Thiền định"
(Chương VII).
Chúng ta cần ổn định nhận
thức từng vấn đề:
-- Thiền định là con đường tu
tập chính thống, độc nhất đi đến giải thoát của
Phật giáo:
Trên lộ trình tu tập giải thoát,
Thế Tôn đã đi qua hết đoạn đường Thiền định của
ngoại đạo mà cao đỉnh là định Phi tưởng phi phi tưởng,
và Ngài đã từ bỏ ra đi vì cho rằng con đường này còn
bị vướng mắt vào sinh tử. Thế Tôn lại hành khổ hạnh
sáu năm liền, và Ngài đã từ bỏ ra đi, vì cho rằng đây
không phải là chánh đạo dẫn đến giải thoát (xem "Phật
Học Khái Luận", cùng soạn giả). Sau cùng, Thế Tôn quyết
định Thiền quán dưới cội Bồ-đề (Assatha - Bát-đa-la)
trong vòng ba tuần lễ (có nơi ghi 7 tuần lễ; thời gian này
có thể ghi nhận từ 3 đến 7 tuần lễ ) theo kinh nghiệm
Thiền định đã giúp Ngài vào Sơ Thiền trong dịp vua Tịnh
Phạn làm lễ "hạ điền" (xuống đồng). Ngài khởi niệm
đoạn tận lòng tham ái và đã chứng đắc vô thượng bồ-đề.
Ðây là con đường độc nhất ngài chứng ngộ để về sau
ngài tuyên thuyết con đường giải thoát sinh tử, khổ đau
gọi là Phật giáo .
Do vậy, định giải thoát cao
nhất của Phật giáo đến từ Thiền định (Thiền chỉ,
Thiền quán).
Ðạo đế gồm có 37 phẩm trợ
đạo mở đầu là Tứ Niệm Xứ. Ðây là pháp môn Thiền định.
Tứ Chánh cần thì thuộc Ðịnh uẩn. Tứ như Ý Túc (dục
định, niệm định, tâm định và tư duy định) cũng thuộc
Ðịnh. Ngũ căn, ngũ lực (tín, tấn, niệm, định, tuệ) có
ba chi phần (tấn, niệm, định) là thuộc Ðịnh uẩn. Thất
Giác Chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định,
xả) bao gồm các chi phần Thiền định. Bát Thánh Ðạo có
ba chi phần (chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định)
thuộc Ðịnh uẩn. Thế có nghĩa là Ðạo đế là con đường
tu tập nỗi bật sắc thái Thiền định.
Qua nếp sống của chư Tăng lời
Thế Tôn tại thế, các vị Tỷ-kheo chỉ có hai việc chính
phải làm là học hỏi Giáo lý và tu tập Thiền định (xem
Phật Học Khái Luận, cùng soạn giả). Sinh hoạt cốt lõi
của nếp sống giải thoát ấy rõ là Thiền định.
Kinh Pháp Cú, kệ số 301 chép:
"Ðệ tử Gotama
luôn luôn tự tỉnh giác
không luận ngày hay đêm
Ý vui tu Thiền định".
("Suppabuddham pabujjhanti
Sadà Gotamasàvakà)
Yesam divà ca ratto ca
Bhàvanàya rato mano")
Kệ 386 chép:
"Tu Thiền, trú ly trần
Phật sự xong, vô lậu
Ðạt được đích tối thượng
Ta gọi Bà-la-môn."
("Jhàyim, virajam àsìnam
Katakiccham anàsavam
Uttamattham anuppattam
Tam aham brùmi Bràhmanam")
Quả chứng Lục thông của Phật
giáo gồm Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc thông là
kết quả tu tập Thiền chỉ; Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông
và Lậu tận thông là kết quả của tu tập Thiền quán.
Quả vị Tam minh (Thiên nhãn, Túc mệnh và Lậu tận) là
quả vị tu chứng đặc biệt chỉ có trong Phật giáo đã là
kết quả đến từ con đường Thiền định của Phật giáo.
Qua chừng ấy trưng dẫn, chúng ta
đã thấy Thiền định là con đường tu chính thống của
Phật giáo. Ðức Thế Tôn còn xác định rõ hơn vị trí
của con đường Thiền định này:
"Này các thầy Tỷ-kheo, con đường
độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua
mọi sầu não, khổ, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng
Niết-bàn là con đường này: đó là Bốn Niệm Xứ".
(Ekàyano ayam bhikkhave maggo sattànam
visuddhiyà sokapatiddhavànam samatikkamàya dukkhadomanassànam
atthagamàya nàyassa abhigamàya niggànassa sacchikiriyàta cattàro
satipatthanà - Trung Bộ Kinh I, Kinh Tứ Niệm Xứ).
Con đường trở về nương tựa
chính mình và nương tựa Chánh pháp đúng nghĩa là con đường
Thiền định. Thế Tôn dạy:
"Này, Ananda, vị Tỷ-kheo quán
thân nơi thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm nhiếp
phục tham ưu ở đời, quán thọ nơi thọ..., quán tâm nơi
tâm..., và quán pháp nơi pháp.... này Ananda, như vậy là
vị tỷ-kheo tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, không nương
tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh
pháp làm chỗ dựa nương tựa, không nương tựa một gì
khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng
trong hàng Tỷ-kheo của Ta." (Trường Bộ Kinh III, tr. 101,
bản dịch của HT. Minh Châu, 1972).
Qua lời dạy này, Thiền định
nỗi bật sắc thái rất là chính thống của Phật giáo.
Trung A-hàm, Kinh Niệm Xứ, số 98,
chép:
"Có một con đường tịnh hóa
chúng sanh, vượt qua lo sợ diệt trừ khổ não, chấm dứ
kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Ðó là Bốn Niệm Xứ. Các
Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh Giác ở quá
khứ đều đoạn trừ Năm triền cái là thứ làm tâm ô
uế, tuệ yếu kém, lập tâm chánh trú nơi Bốn Niệm Xứ,
từ Bảy Giác Chi mà chứng quả Giác ngộ. Ta nay trong
hiện tại, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh
Giác, Ta cũng đều đoạn trừ Năm triền cái làm tâm ô
uế, tuệ yếu kém, Ta cùng lập tâm chánh trú nơi Bốn
Niệm Xứ, tu Bảy Giác Chi mà chứng quả Vô Thượng Chánh
tận".
A-hàm thuộc Nhứt Thiết Hữu
Bộ, qua đoạn kinh vừa dẫn, xác định rõ Thiền định
Tứ Niệm Xứ là con đường tu tập truyền thống của ba đời
chư Phật.
Ði vào các kinh thuộc Bắc Tạng,
chúng ta cũng sẽ lần lượt tìm thấy một kết luận tương
tự về Thiền định.
Thủ Lăng Nghiêm kinh chỉ bày con
đường vào Lãng Nghiêm đại định để thấy rõ thật pháp
hay chân tâm là con đường hành Thiền quán viên thông các căn,
các trần, các thức, các đại. Thực ra đó là ngõ đường
Thiền chỉ và Thiền quán của Thiền định. Kinh Viên Giác
ngoài phần diễn bày viên giác tánh, đã giới thiệu các pháp
tu chỉ, quán, và chỉ quán song tu.
Kinh Pháp Hoa thì đã khéo giới
thiệu Ðức Phật nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ định rồi
xuất Vô Lượng Nghĩa Xứ định mới tuyên thuyết Pháp Hoa
(phẩm Tựa). Ðấy là cách diễn đạt Tri Kiến Phật chỉ
xuất hiện từ đại định, hay nói cách khác, qua con đường
Thiền định, hành giả mới đi đến Tri Kiến Phật.
Kim Kim Cang Bát-nhã thì với bài
kệ kết thúc kinh được trình bày như là lời cô kết về
con đường hàng phục vọng tâm, rằng:
"Hết thảy các Pháp do duyên
sanh
Như mộng, như huyễn, như bọt nước
Như sương mai, như ánh chớp
Nên khởi lên cái nhìn như vậy".
(Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán)
Ðấy là hình thức hành Thiền quán
về tính vô ngã và vô thường của các pháp, nhìn rõ thấy
tính không thật và tính mong manh của con người và thế
giới để rời khỏi lòng tham ái và chấp thủ.
Pháp tướng Duy thức học là con
đường dẫn đưa hành giả từ tướng trạng vào chân
thể. Cơ sở nhận thức của tông phái này là lý Duyên
khởi. Con đường thực hiện là Duy thức hạnh hay là Duy
thức quán mà nội dung quán niệm gồm có năm bậc:
1. Quán nhận thức "biến kế"
là sai lầm, do vì tất cả Pháp là Duyên sinh, nên hết
thảy tướng trạng ấy là hư giả.
2. Quán hết thảy các Pháp là
do "tám thức tâm vương" biến hiện ra, do đó không có
thực thể.
3. Quán tâm thức năng biến và
các pháp sở biến đều do duyên sinh, đều nương nhau mà
có, nên tất cả đều không thật.
4. Quán 51 món"tâm sở" và 24 món
"tâm bất tương ưng hành" là do các tâm vương biến
hiện nên không thật.
5. Sau hết, quán "tám thức tâm
vương" do duyên sinh, kỳ thực cũng phi thực.
Cái chân thật sau cùng là "tánh
cảnh" thì rời hết mọi tướng trạng giả hợp. Ðây
gọi là Duy thức thật tánh.
Như vậy, con đường vào "Duy
thức thật tánh" là con đường Thiền quán (Vipassana) về
duyên sinh tính, vô ngã tính của các pháp. Ðấy là Thiền
Ðịnh.
Nói tóm, con đường giải thoát dù
được trình bày dưới hình thức nào của các Kinh Nam hay
Bắc tạng, vẫn là con đường Thiền định loại trừ tham
ái, chấp thủ và vô minh.
Ở đây, ta có thể kết luận
rằng: Thiền định là con đường tu chính thống nhất của
Phật giáo. Nói rõ hơn nữa, Thiền định là con đường độc
nhất đi đến đoạn tận khổ đau.
Thiền Ðịnh Là Pháp Môn Tu Phù
Hợp Với Mọi Căn Cơ
Người ta thường xem Thiền là
một tông phái của Phật giáo, và gọi là Thiền tông. Ðây
thật là một điều nhầm lẫn lớn.
Có người lại xem Thiền Công án,
như chính là con đường Thiền định của Phật giáo, rồi
cho rằng Thiền định chỉ phù hợp với một số ít căn cơ
đặc biệt nào đó (hàng lợi căn), người đời nay vì
nghiệp chướng nên phần lớn thích hợp với con đường
Tịnh độ. Ðây cũng là một quan niệm giới hạn và lệch
lạc.
Khi đã chứng tỏ Thiền định là
con đường độc nhất đưa đến giải thoát, có nghĩa là
mọi người đi về giải thoát đi trên con đường Thiền định.
Dù cho hành giả có muốn đặt tên nào khác cho con đường
tu tập giải thoát, thì đòi hỏi tâm thức người ấy cũng
phải hành Giới, Ðịnh, Tuệ, hay nói gọn là hành Thiền định.
Hành giả không thể hành khác đi mà có thể giải thoát các
lậu hoặc.
Truyền thống Thiền định Phật
giáo, chia căn tánh con người làm sáu loại:
1. Căn tánh tham ái (ràga carita)
2. Căn tánh si mê (moha carita)
3. Căn tánh sân hận (dosa carita)
4. Căn tánh tín ngưỡng (saddhà carita).
5. Căn tánh tri thức, biện giải (buddhi carita)
6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita).
Mỗi người sẽ rơi vào một
trong sáu căn tánh kể trên trong suốt đời hay trong một
giai đoạn của cuộc đời.
Mỗi căn tánh lại có một số phương
thức tu tập Thiền định thích ứng. Chẳng hạn, căn tánh
sân thì đối tượng tu là "từ", căn tánh tham thì đối tượng
tu là "bất tịnh tướng" v.v...
Riêng pháp môn tu Niệm giác hay
Niệm xứ (trừ quán bất tịnh) thì phù hợp cho mọi căn tánh.
Thế tôn đã truyền dạy Pháp Niệm hơi thở vào hơi thở
ra (Anàpanasatisuttam, Tương Ưng Bộ Kinh, V) để an toàn tâm lý
cho mọi hành giả thuộc mọi căn cơ. Do đó, pháp môn
Thiền định này hẳn là phù hợp các căn cơ khác nhau của
con người thời đại.
Chúng ta không thể viện ra bất
cứ lý do nào để cho rằng căn cơ mình, điều kiện sống
của mình không thích hợp với con đường Thiền định. Tùy
theo điều kiện sống, giờ giấc, nhận thức, ý chí cầu
tu và nỗ lực tu tập của mỗi người mà kết quả tu tập
đến khác nhau sớm hay muộn, nhưng không có một thất bại
nào hay một phản tác dụng tâm lý nào xảy ra.
Xét kỹ nội dung tu tập của
Thiền định Phật giáo, ta cũng có thể nhận ra rằng trong
các bước đi điều hòa hơi thở, điều hòa thân và điều
hòa tâm với nhịp độ tu tập vừa phải thì sẽ không có
một sự xáo trộn tâm lý, vật lý nào (kể cả sinh lý).
Ngày nay, với sự phổ biến
rộng rãi kinh điển của các bộ phái, và với sự tiếp
cận dễ dàng với các Thiền sư các Thiền viện đây đó,
thế hệ chúng ta có thêm nhiều điều kiện tìm hiểu giáo
lý sâu rộng và cởi mở, nên dễ ổn định về nhận
thức. Chúng ta có thể phát biểu rằng nói đến Phật giáo
là nói đến Thiền định, như quần chúng Việt Nam thường
gọi cửa chùa là cửa Thiền. Nói đến Thiền định là nói
đến Tứ Niệm Xứ hay Ðạo đế (37 phẩm trợ đạo). Nói
đến con đường tu tập giải thoát của hàng xuất gia và
tại gia là đề cập đến việc học hiểu giáo lý và
thực hành Thiền định. Công việc thực hành Thiền định
là công việc chuyển đổi tâm lý có thể thực hiện được
trong các công việc sinh hoạt hằng ngày, gồm cả việc
giảng dạy giáo lý, bố thí, trì giới, tham gia các công tác
xã hội đem lại an lạc và hạnh phúc chung.
Chính ý nghĩa trên của Thiền định
Phật giáo mở ra một hướng thống nhất về quan điểm
nhận thức và tập cho tín đồ Phật giáo của các bộ phái,
xóa đi các ngộ nhận và cố chấp trên đường tu tập để
có cái thấy đúng, cái tư duy đúng về con người giải thoát.
Như thế, Thiền định Tứ Niệm
Xứ là giáo lý có thể được mọi người thực hiện trên
một địa bàng rộng rãi khắp các sinh hoạt xã hội (đi,
đứng, nằm, ngồi) từ công phu giản dị nhất đến công
phu tế nhị nhất. Nói gọn là nó mang đủ ba tính chất: không
phân biệt người, không phân biệt nơi chốn, và không phân
biệt thời gian.
Thiền Ðịnh: Hình Thức Giáo Lý
Ðược Trình Bày Một Cách Giản Dị Nhưng Chứa Ðựng Các
Công Phu Ðặc Thù
Giáo lý Tứ Niệm Xứ về "Niệm
hơi thở vào hơi thở ra" trình bày với nội dung rất
giản dị, nhưng không vì thế mà chúng ta nghi ngờ về công
năng giải thoát của nó. Nhất là giáo lý này được chính
Thế Tôn, bậc Ðại Tuệ, tự ngài thân chứng và giảng
dạy. Không có lời dạy nào của Thế Tôn mà lại rỗng không,
không có chứa đựng thực tại giải thoát. Cứ đi vào công
phu tu tập, chúng ta sẽ dần dần thấy rõ cái thực tại
giải thoát phong phú nằm ở đằng sau các ngôn ngữ giản
dị của pháp môn Thiền định.
Thiền định Tứ Niệm Xứ sẽ giúp
hành giả tự huấn luyện Niệm lực, Ðịnh lực và Tuệ
lực. Niệm là công phu nhìn, quan sát, theo dõi một đối tượng.
Nhìn từ điểm khởi đầu hời hợt chuyển dần đến chuyên
sâu, từ trạng thái tâm lý đầy dao động đến trạng thái
vắng lặng, an tỉnh, từ cấp độ tâm bị chi phối bởi
ảnh hưởng từ nội tâm đến ngoại cảnh đến cấp độ
làm chủ, kiểm soát, chế ngự các ảnh hưởng ấy. Công
phu nhìn như thế sẽ giúp hành giả đi ra khỏi các sai
lệch và giới hạn của tư duy, tình cảm và các tâm lý
tham, sân, si, mạn, nghi của chính hành giả. Công phu nhìn như
thế sẽ nuôi dưỡng chánh niệm, tỉnh giác là sự có mặt
của trí tuệ, nhân tố soi đường vào giải thoát và tri
kiến giải thoát. Tại đây, các tâm lý và cảm thọ đem
lại sầu, bi, khổ, ưu, não chấm dứt; tại đây sự vật
như thật xuất hiện.
Chính cái nhìn chuyện sâu ấy
tạo nên Niệm lực và Ðịnh lực, Chánh niệm tỉnh giác
tạo nên Tuệ lực đưa hành giả từ địa vị phàm phu lên
địa vị các bậc Thánh Vô học (Thánh A-la-hán), chứng
ngộ quả vị cao nhất của một bậc Ðại nhân .
Suốt quá trình tu tập, hành giả
luôn luôn đối mặt với những chuyển biến tâm lý của
tự thân, thấy rõ phiền não, sự sinh khởi của phiền não,
và thấy rõ lối đi ra khỏi phiền não(hay lối đi vào
giải thoát). Hành giả có kinh nghiệm rất thực, rất là người,
không bao giờ cầu xin hay chờ đợi một ân huệ nào từ đâu,
biết rằng hạnh phúc và giải thoát do chính mình tạo
bằng nỗ lực của chính mình trong hiện tại và tại đây.
Hạnh phúc ấy có thực, có mặt trong hướng sống đầy ý
nghĩa trong lành ấy.
Chừng nào lòng tham ái và đắm
trước (chấp thủ) lặn mất thì bấy giờ các việc thở vào
thở ra, hay theo dõi hơi thở vào ra, đều là Bà-la- mật,
rốt ráo Ba-la-mật.
Thiền Ðịnh: Con Ðường Giáo
Dục Tâm Lý, Loại Bỏ Tức Thời Các Phiền Não
Phiền não được nói đến ở đây
là phiền não của hành giả trước khi vào Thiền. Ðối
với tuổi trẻ, đây là một vấn đề giáo dục thật chủ
yếu. Phiền não cướp đi mất hạnh phúc và tươi tắn
của tuổi trẻ. Nó ngăn trở các nguồn sáng tạo, làm trì
trệ việc phát triển khả năng, làm giảm sút nhiều hiệu
năng tiếp thu của sinh viên, học sinh, có nghĩa làm mất đi
nhiều hiệu năng của việc dạy, học, giáo dục. Nó là đối
tượng chính của ngành tâm lý giáo dục hiện tại. Ðể giúp
cho con người nói chung, tuổi trẻ nói riêng, hàng phục
phiền não, các học đường tiên tiến đã áp dụng nhiều
biện pháp giải trừ mà biện pháp Thiền chỉ và Thiền quán
đã được vận dụng từ ba thập niên trở lại là hiệu
lực nhất, dù mức độ phổ biến còn giới hạn.
Như chúng ta biết, đạo Phật là
đạo đoạn trừ phiền não, khổ đau. Thiền định là con
đường trực tiếp hàng phục nó. Nói thiền định có khả
năng hàng phục phiền não và vô minh là nói đến khả năng
hàng phục ở đương niệm, đương thời, tại đương xứ
(nó giản dị là: nó hàng phục phiền não ngay trong hiện
tại và tại đây).
Phiền não có mặt là có mặt
ngay trong ý thức đang trôi chảy (đương niệm), có ý thức
nắm giữ nó, nhìn nhận nó và đầu hàng nó, có khi mê mờ
biến nó thành mình. Phiền não không thể, tuyệt đối không
thể, đến với ta bằng ngõ đường nào khác. Nếu cánh
cửa đương niệm (ý niệm tức thời) mở ra và cho phép, thì
nó vào; nếu khép lại thì nó đi. Thiền định và Thiền quán
là khả năng tạo cho đương niệm một cánh cửa tự động
luôn luôn khép lại trước các thứ phiền não.
Giờ ta đi vào quan sát cánh cửa
tự động ấy:
-- Nếu bạn chú tâm vào một đối
tượng như là hơi thở, như đóa hồng, một đóa sen, mơ
hồ nước một thác nước hay một kỷ niệm đẹp của
thời thời thơ ấu v.v... thì bạn sẽ gạt khỏi tâm mình các
đối tượng khác, trong đó có các đối tượng phiền não
của bạn. Bạn có thể làm điều đó khi mở mắt đang đi,
đứng, nằm, ngồi, nghĩa là bạn có thể gạt phiền não ra
khỏi đương niệm bất cứ khi nào bạn muốn.
-- Nếu công phu thực hiện Thiền
của bạn đã đến mức phấn khởi, sinh hỷ lạc, thì
đương nhiên các phiền muộn tức bực, chán nản không có
chân đứng trong tâm bạn.
-- Nếu bạn, theo phương pháp
Thiền quán nhìn thẳng vào đối tượng phát sinh chản
nản, sầu muộn, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, và các khía
cạnh tiêu cực của nó, thì sầu muộn, chán nản sẽ mắc
cở tan đi. Nếu là loại phiền não cấm rễ sâu vào tâm lý
của bạn, bạn sẽ đi con đường suy nghĩ thoát khỏi nó,
bạn sẽ thấy ngay và đi ra khỏi ngay không bao lâu sau, bởi
vì nó vốn là khách trần, là ảnh tượng, bạn có thể
mời nó ra khỏi đương niệm, ra khỏi căn nhà tâm lý của
bạn bất cứ lúc nào.
-- Bằng Thiền Quán, bạn có thể
dùng trí tuệ của mình đốt cháy nó. Bạn tự hỏi: nó là
gì? Tại sao ta lại phải khổ đau vì nó? Ta vốn làm chủ và
độc lập với nó, tại sao ta lại vướng mắc vào các bóng
dáng, ảnh tượng ấy? Tại sao lại để nó (phiền não) trói
mình? Rồi bạn sẽ thấy buồn cười, sẽ mỉm cười mình
với nụ cười như "nụ cười niêm hoa" của Tôn giả
Ca-diếp.
Trong khi thực hiện pháp quán này,
dù bạn chưa đạt được cấp độ của "nụ cười niêm
hoa", phiền não cũng đủ mất hết ảnh hưởng của nó và
chết chìm trong tâm thức của bạn.
-- Nếu bạn biết trú vào Thiền
quán Ngũ uẩn, Mười hai nhân duyên, thì bạn sẽ dễ dàng
thấy phiền não không phải là mình, không phải của mình,
không phải là tự ngã của mình, và dễ dàng buông bỏ nó.
-- Nếu bạn còn có mối nghi ngờ
nào về các điều vừa được trình bày, thì hãy thử làm
đi, bạn sẽ biết liền hư thực.
-- Khi tức giận, khi sợ hãi, lo
âu, bất an, tim bạn thường nhảy loạn. Bạn chỉ cần theo
dõi hơi thở ra vào, đếm từ 1 đến 10 (vào và ra: đếm
1...) và giữ cho hơi thở đều đặn, điều hòa, thì tim
bạn sẽ trở lại bình thường và tâm lý của bạn sẽ
trở lại trạng thái quân bình.
Bạn mất bình tĩnh trước đám
đông, tim cũng nhảy loạn, bạn cứ làm y hệt như thế (điều
hòa hơi thở), bạn sẽ lấy lại khá nhiều bình tĩnh.
-- Chỉ với sự khôn ngoan, với
suy tư giản dị (dĩ nhiên, suy tư giản dị này cũng mang ý
nghĩa Thiền quán) bạn cũng có thể đi ra khỏi rối loạn,
phiền não. Bạn hãy từng bước đặt vấn đề:
a. Có một phiền muộn, nghĩa là
bạn đang để tâm lý mình vướng mắc một phiền muộn.
Bạn đang đối mặt với nỗi phiền muộn trong tâm của
bạn. Về mặt tâm lý, bạn hầu như hoàn toàn tự do trong
từng giây phút hiện sinh. Không thực sự có một bàn tay
hay một sức mạnh nào ngoài can thiệp cả. Bạn chịu trách
nhiệm hoàn toàn trong việc nắm giữ hay buông thả nó.
b. Bạn nhìn thẳng vào nỗi
phiền muộn, đừng chạy trốn cũng đừng sợ hãy nó.
Với thái độ đó, phiền muộn sẽ yếu hẳn đi, mất đi
nhiều tác dụng trên tâm lý của bạn. Xét kỹ do nguyên
nhân nào nó sinh, bạn sẽ thấy ra chỗ gỡ. Ðồng thời
bạn sẽ thấy ra rằng nỗi phiền muộn quấy rầy bạn thì
ít, mà chính cái suy tư rắc rối, bối rối của bạn
quấy rầy nhiều hơn. Bởi vì, trên bề mặt ý thức,
phiền muộn ý thức, phiền muộn xuất hiện cũng như mây
trời, như cỏ nội hoa ngàn, tự nó không quấy rầy, châm
chích bạn. Duy chỉ vì bạn chấp chặt nó, suy tư về nó
một cách lệch lạc, bệnh hoạn nào đó, bạn mới hốt
hoảng, sầu muộn.
c. Bạn cần nhận ra rằng: Không
ai bốc phiền não ném vào tâm mình cả, mà phiền não cũng
không thật có để quấy rầy mình. Chỉ có một điều
duy nhất là bạn biết giữ cho đương niệm (ý thức
hiện tại) đừng dính mắc nó.
Chuyện theo dõi và kiểm soát
đương niệm một cách nhẹ nhàng như vậy là chuyện đơn
giản, nhưng nếu bạn thấy vẫn còn khó thực hiện, thì
bạn hãy bắt chước kinh nghiệm của người đời xưa,
bạn tự nói: Thây kệ nó! Ðể mai hẳn buồn , hẳn lo ...
Rồi các công việc tiếp theo trong ngày, hay một giấc ngủ
con sẽ giúp bạn đi ra khỏi nó. Ðiều đó có nghĩa là
nếu bạn kệ nó, bỏ qua nó, thì nó qua. Mọi chuyện đời
đều đơn giản. Chỉ có suy tư của rắc rối mà thôi!
Nhìn kỹ vào tâm lý của mình,
bạn sẽ thấy phần lớn các phiền não rối loạn của mình
dấy khởi đều do những tư duy của mình tiếc nuối quá
khứ, hay những tư duy không thiết thực, mơ mộng hão
huyền về tương lai. Bạn cần nhận rõ sống là sống trong
hiện tại, sống bằng an lạc của đương niệm, bằng
thực tại có thực đang trôi chảy. Quá khứ và tương lai
đều là ảnh tượng, là những hình ma bóng quế. Từ đây,
bạn mới có được một chọn lựa rõ ràng: nắm giữ
hiện tại và buông bỏ những tiếc nuối, những mơ ước,
mộng tưởng.
Thế Tôn đã dạy:
"Không tiếc nuối quá khứ
Không mơ ước tương lai
Chỉ sống với hiện tại
Người tiếc nuối quá khứ
Và mơ ước tương lai
Dung sắc sẽ khô héo
Như bông lau lìa cành".
(Tương Ưng Bộ Kinh I, phẩm Cây Lau)
" Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã qua rồi
Tương lai thì chưa đến
Chỉ có Pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây". ...
(Trung Bộ Kinh III, Nhất Dạ Hiền Giả)
Từ một số ý kiến vừa trình bày,
bạn hãy trầm tư và thực hiện. Thiền định chỉ cho ta trách
nhiệm về chính sự vui, khổ của mình. Không đổ lỗi, cũng
không chờ đợi một phép lạ nào khác. Chúng ta cần mãi
nhớ rằng cái chìa khóa của kho tàng tâm thức , của hạnh
phúc muôn đời đang ở trong tay mình, nó rất gần gũi và
giản dị, nếu mình nhận ra điều đó .
Thiền Ðịnh Giữ Vị Trí Cần
Yếu Trong Việc Xây Dựng Một Mẫu Người Giáo Dục Tốt
1. Thiền định là con đường
trở về với tự trách nhiệm, tự tri, tự giác, tự chế,
tự lập... cho ta niềm tin xây dựng được một mẫu người
giáo dục tốt
Các hệ tư tưởng Hy Lạp, Ấn Ðộ,
Trung Hoa và các hệ tư tưởng thời nay có thể được xếp
vào một trong ba phạm trù sau đây:
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ ba:
Ðây là những hệ tư tưởng chấp nhận có một chân lý
hoàn toàn khách quan ở ngoài thiên nhiên (thế giới hiện
tượng) và con người. Chân lý đó được hiểu như là
một đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ và con người, và
quyết định số phận con người cùng các lẽ thiện, ác.
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ hai:
Là những hệ tư tưởng cho rằng có một chân lý khách
quan, nằm trong hiện tượng giới, ở thế giới khách quan
độc lập với con người.
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ
nhất: Hai nhóm hệ tư tưởng là hai nhóm triết lý vong
thể (hay tha hóa), bởi vì chúng đã đánh mất con người,
đưa con người đến một thân phận khốn cùng.
Ðể giải thoát ra khỏi thân
phận bi đát ấy, con người đã vùng dậy khắp trái đất
nói lên tiếng nói rất người đánh thức mình trở về chính
mình. Ở đó, hy vọng sẽ tìm thấy hạnh phúc và sự thật
buộc đời. Những tiếng nói của buổi đầu như "Thượng
đế đã chết", "con người là thước đo vũ trụ", "con
người đặt để Thượng đế", "con người đánh giá
mọi thứ", "con người là chủ nhân ông ...". Ðó là giai
đoạn triết lý phản tỉnh, khởi đầu bằng các làn sóng
"hiện sinh" (Existentialism), tiếp đến là các thuyết nhân
bản. Tổ chức nhân quyền của Liên Hiệp Quốc cũng nhấn
mạnh đến con người, vì con người và cho con người. Ðó
là hệ tư tưởng ngôi thứ nhất.
Con người đích thực của hiện
sinh là con người của giáo lý Vô ngã:
Nhưng con người là một hiện
hữu phức tạp của một tổng hợp thể vật lý (sắc
uẩn), tâm lý, tình cảm, ý chí và trí tuệ (thọ, tưởng,
hành và thức uẩn). Nó đứng giữa đám sương mù của tim
và óc, của quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự trở về
của hệ tư tưởng phản tỉnh ngôi thứ nhất là sự trở
về với con người đầy sương mù ấy và không nhận ra
nẻo vào con người đích thực của hiện sinh, con người
của hạnh phúc và chân lý. Thiền định thật sự chỉ
nẻo về con người đích thực ấy: con người đi ra khỏi
những tiếc nuối về quá khứ, những mơ ước về tương
lai, và không bị cuốn trôi bởi dòng thác ham muốn và sầu
hận của hiện tại. Ðấy là con đường tự chủ, tự tri,
tự trách nhiệm, tự phát triển bản thân. Tinh thần "tự"
ấy lấy mình làm hòn đảo, làm nơi nương tựa cho chính mình,
là tinh thần chỉ đạo cho một hệ thống giáo dục xây
dựng một mẫu người đầy tính người. Ở mặt dân tộc,
nó biểu hiện ra tinh thần độc lập, tự cường, tự
trọng, bất vọng ngoại, bất khuất, là một trong những đòi
hỏi cần thiết mà xã hội Việt Nam muốn học đường
Việt Nam đáp ứng.
2. Chân lý, tự do và hạnh phúc
Hai khát vọng thống thiết nhất
của con người là hạnh phúc và chân lý (hẳn nhiên là bao
gồm tự do). Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm
kiếm hai đối tượng đó. Không ai có thể phủ nhận rằng
con người sinh ra để sống hạnh phúc, chứ không phải để
khổ đau hay vì mục tiêu nào khác. Các mục tiêu lý tưởng
khác sở dĩ có giá trị, được chấp nhận là vì chúng
phục vụ cho giá trị tối thượng: con người và hạnh phúc
thật sự của con người. Thấy hạnh phúc, mang theo nó ý
nghĩa thấy rõ mình và cuộc đời, là thấy sự thật.
Cho đến nay, người ta vẫn tiếp
tục hỏi và trả lời về hạnh phúc và chân lý. Nghĩa là
người ta đang ở trên con đường tìm kiếm chúng. Ðó là lý
do của sự tồn tại và phát triển của các tư tưởng
hệ. Chừng nào nắm được hạnh phúc và chân lý, hay có
niềm tin vững chắc vào một con đường dẫn đến hạnh phúc
và chân lý, con người sẽ ngưng ngay vai trò của triết lý,
khép cửa lại tư tưởng hệ. Chừng nào còn tiếp tục tìm
kiếm, phó thác vận mệnh mình cho trí thức (nghĩa là cho các
hệ tư tưởng), con người còn tiếp tục thất vọng dài dài
trong thân phận: "mờ mờ nhân ảnh của người đi đêm"
(Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu).
Con người khát khao hít thở
hạnh phúc và chân lý như khát khao chung sống với người yêu
của họ, chứ không phải nói về người yêu cho đỡ nhớ,
như triết lý; hay ngắm nhìn ảnh tượng của người yêu,
như tôn giáo hình thức. Thiền định sẽ giúp con người ra
khỏi ngõ đường thất vọng kia, đến gặp mặt người yêu
- hạnh phúc - chân lý của họ.
Niềm hỷ, lạc của Sơ thiền đến
Tứ thiền sẽ là những cảm nhận hạnh phúc với tần số
rung động do vật chất hay do tương giao xã hội đem lại. Cũng
từ Sơ thiền đến Tứ thiền, qua tuệ quán, con người có
thể đắc quả Thánh từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán thấy
được sự thật của cuộc đời. Ðây là con đường sống
rất thực, đang mở cửa rộng vẫy mời chúng ta và thách
thức chúng ta đi vào thể nghiệm.
Tại đây, nếu giả định rằng
con người chấp nhận Thiền định là con đường đưa đến
hạnh phúc và chân lý, thì cuộc đời sẽ chấm dứt ngay các
cuộc nút chiến về tư tưởng hệ, sẽ chấm dứt ngay các
cuộc chiến do bất đồng quan điểm về con người ấy, và
sẽ tiết kiệm được những khoản chi phí khổng lồ về
giấy mực, bom đạn ... và rất nhiều xương máu. Chúng ta
thấy rõ một phương trời sáng, an lạc, hạnh phúc của nhân
loại mở ra ngay trước mắt.
3. Các tinh thần giáo dục của
Thiền định
Thiền định giáo dục ta tích
cực chấp nhận mình và xã hội mình đang sống, phấn đấu
khắc phục mọi khó khăn, không tiêu cực chạy trốn, và
thể hiện một số tinh thần vừa cải thiện cá nhân vừa
đóng góp vào việc xây dựng xã hội:
-- Thiền quán về lý Duyên sinh,
Vô ngã sẽ giúp ta có thái độ sống lành mạnh, thản nhiên
trước mọi biến chuyển và phát triển lòng dũng cảm, đức
tính vô úy (không sợ hãi).
-- Huấn luyện tâm lý rời xa các
điều ác và bất thiện dẫn đến hai thái độ sống tích
cực: tránh mọi việc làm phương hại đến tập thể và
tha nhân, làm các việc làm đem lại lợi ích cho tha nhân và
tập thể.
-- Hướng tu tập xả bỏ vị
kỷ của Thiền định là hiện thân của lòng vị tha, có
thể giúp người biết xả thân vì xã hội.
-- Tinh thần không tham ái giúp
người ta tránh tham nhũng, biết sống cần kiệm, liêm chính.
Tại đây, có cơ sở tâm lý vững chắc trong việc bày
trừ tham nhũng xã hội. Tiếng nói của nó sẽ hữu hiệu
hơn bất cứ tiếng nói nào khác nhân danh luật pháp hay
một đấng tối cao nào, thiều nền tảng tâm lý đầy tính
người.
-- Tinh thần tu tập đập vỡ các
sân hận và tính cố chấp sẽ là nhân tố tốt nhất cho
một tinh thần tập thể tích cực. Nó mở ra một hướng
văn hóa khai phóng đầy tính người và tạo dựng được
tốt đẹp tình đoàn kết keo sơn của dân tộc, yếu tố
quan yếu nhất quyết định sự tồn tại và phát triển
của dân tộc Việt Nam.
-- Tinh thần tinh cần, không buông
lung, không phóng dật, không lười biếng, sẽ phá đổ các
căn bệnh tiêu cực của xã hội.
-- Thiền chỉ và Thiền quán
(hay định và tuệ) sẽ là những nút bấm làm bung vỡ các
nguồn sáng đã đóng góp lớn lao vào công việc kiến
tạo xã hội và xây dựng văn hóa và văn minh.
-- Tinh thần tự chủ, trở về
nương tựa chính mình của Thiền định sẽ là nhân tố
chính của tinh thần độc lập của dân tộc, mở ra một
nền văn hóa rất là dân tộc, mang đầy Việt tính.
Thời đại Lý Trần chịu ảnh hưởng
lớn của giáo lý Thiền định của Phật giáo, dù chưa
thể hiện đúng mức những giá trị của một nền văn hóa
Thiền định, đã là những thời đại vàng son của lịch
sử: anh dũng đánh thắng giặc ngoài đầy hung bạo, đoàn
kết dân tộc keo sơn, và tổ chức tốt các mặt văn hóa, xã
hội, học thuật và quốc phòng. Hai thời đại đó cho ta
niềm tin về những đóng góp tích cực của một nền văn hóa
Thiền định trong việc dựng xây con người và xã hội
Việt Nam tốt đẹp.
Từ một số nhận thức cơ bản
trên về Thiền định , chúng ta có thể ổn định tâm lý
tự thân về cả hai mặt: an toàn tâm lý trong việc tu tập
của cá nhân và đáp ứng được thao thức chung về việc góp
phần xây dựng một cuộc sống hạnh phúc cho con người.
-oOo-
Mục
lục | Chương kế |