I) Thiền Định 
								trong Phật Giáo Nguyên Thủy
								
								
								Ị1) ĐỊNH NGHĨA: Thiền định (samādhi) hay thiền 
								chỉ (samatha bhāvanā) có mục đích chế ngự 5 
								chướng ngại của định gọi là triền cái (nīvaraṇa) 
								và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi định phần 
								trong Bát Thánh Đạo (Aṭṭhaṅgik’ ariya magga) 
								tương ứng với ba mức độ định khác nhau: 
								
								a) Chánh tinh tấn (sammā vāyāmo): An trú nhờ cố 
								gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng (parikamma 
								nimitta) và thô tướng (uggha nimitta). An trú 
								này gọi là chuẩn bị định (parikamma samādhi).
								
								
								b) Chánh niệm (sammā sati): An trú nhờ duy trì 
								nhất tâm trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga 
								nimitta). An trú này gọi là cận hành định (upacāra 
								samādhi) hay tịnh thuộc dục giới định. 
								
								c) Chánh định (sammā samādhi): An trú nhờ nhất 
								tâm bất động trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga 
								nimitta). An trú này được gọi là an chỉ định (appanā 
								samādhi) hay định sắc giới và định vô sắc giớị
								
								
								Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn 
								trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối 
								tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu 
								xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) 
								mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định 
								tâm. 
								
								Thô tướng: sau khi tập chú với tưởng đủ mạnh để 
								sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên 
								trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ 
								hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập 
								chú vào thô tướng bên trong. 
								
								Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức 
								tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là 
								quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, 
								vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để 
								đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới 
								hay thiền hữu sắc. 
								
								Ị2) ĐỐI TƯỢNG thiền định (kammaṭṭhāna): Có 40 
								đối tượng làm công án hay đề mục thiền định: 
								
								1) 10 đề mục hình tròn (kasiṇa): Đất, nước, lửa, 
								gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, hư không.
								
								
								2) 10 đề mục tùy niệm (anussati): Phật, Pháp, 
								Tăng, giới, thí, thiên, sự chết, 32 thể trược, 
								tịch tịnh, hơi thở. 
								
								3) 10 đề mục tử thi bất tịnh (asubha): Tử thi 
								mới chết, tử thi bầm tím, tử thi chảy máu, tử 
								thi chảy mủ, tử thi bị đâm thủng, tử thi có giòi, 
								tử thi bị chặt đứt đoạn, tử thi bị cắn xé, tử 
								thi rời rạc, tử thi chỉ còn xương. 
								
								4) 4 đề mục tâm vô lượng (appamaññā): Tâm từ vô 
								lượng, tâm bi vô lượng, tâm hỷ vô lượng và tâm 
								xả vô lượng. 
								
								5) 1 đề mục quán vật thực bất tịnh. 
								
								6) 1 đề mục phân tích tứ đại: Đất, nước, lửa, 
								gió. 
								
								7) 4 đề mục thiền vô sắc: 
								
								- “Hư không là vô biên” (ākāso ananto): tưởng 
								không này làm đối tượng của thiền hư không vô 
								biên xứ (ākāsānañcāyatana). 
								
								- “Thức là vô biên” (viññāṇaṃ anantaṃ): tưởng 
								không này làm đối tượng của thiền thức vô biên 
								xứ (viññāṇānañcāyatana). 
								
								- “Vô sở hữu” hay “không có gì cả” (natthi kiñci): 
								tưởng không này làm đối tượng của thiền vô sở 
								hữu xứ (ākiñcaññāyatana). 
								
								- “Vắng lặng, vi tế” (santaṃ, paṇitaṃ): tưởng 
								không này làm đối tượng của thiền phi tưởng phi 
								phi tưởng xứ (nevasaññānāsaññāyatana). 
								
								Ị3) TÁNH ĐỊNH HÀNH GIẢ (carita): Hành giả hành 
								thiền định có 6 loại tánh: 
								
								1) Tánh tham (rāga): hay tánh ái là tánh nặng về 
								tham ái, thường ham thích, mê đắm, dính mắc 
								trong các đối tượng dục giới khả ái, khả hỷ như 
								sắc, thanh, hương, vị, xúc. Người có tánh tham 
								nên hành 10 đề mục tử thi bất tịnh, 1 đề mục về 
								32 thể trược, vì những đề mục này có thể chế ngự 
								được lòng tham ái, nhưng không nên hành 4 đề mục 
								vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả và 4 đề mục xanh, 
								vàng, đỏ, trắng vì những đề mục này dễ sinh tham 
								áị 
								
								2) Tánh sân (dosa): là tánh nặng về sân hận, 
								thường biểu hiện trạng thái bất mãn, trái ý, 
								không vừa lòng, nóng nảy, căng thẳng, bực bội… 
								Người có tánh sân nên hành 4 đề mục vô lượng tâm: 
								Từ, bi, hỷ, xả và 4 đề mục xanh, vàng, đỏ, trắng 
								vì những đề mục này làm cho tâm dễ lắng dịu, 
								nhưng không nên hành 10 đề mục tử thi bất tịnh, 
								1 đề mục về 32 thể trược vì những đề mục này dễ 
								làm cho tâm chán nản bực bội thêm. 
								
								3) Tánh si (moha): là tánh nặng về si mê, thường 
								thiếu sáng suốt, không tỉnh táo, hay thụ động, 
								mê muội nên dễ bị hôn trầm thụy miên. Người có 
								tánh si nên hành đề mục hơi thở để dễ tỉnh táo, 
								trong sáng và linh hoạt hơn, nhưng không nên 
								niệm sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật thực bất 
								tịnh, phân tích tứ đại vì những đề mục này quá 
								phức tạp đối với tâm tánh nàỵ 
								
								4) Tánh tầm (vitakka): là tánh nặng về suy nghĩ, 
								tìm tòi nên tâm luôn lăng xăng với những suy 
								luận, phê phán, đánh giá... và dễ dàng trở nên 
								trạo hối bất an. Người có tánh tầm cũng giống 
								như tánh si thích hợp với đề mục hơi thở. Không 
								hợp với niệm sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật 
								thực bất tịnh và phân tích tứ đạị 
								
								5) Tánh tín (sahā): là tánh nặng về tin tưởng, 
								thường cung kính, ngưỡng mộ, dễ nghe, dễ dạỵ 
								Người có tánh tín nên hành 6 đề mục tùy niệm: 
								Niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên vì nhờ 
								tin nơi những đức tính cao thượng này mà tâm dễ 
								ổn định. 
								
								6) Tánh giác (buhi): là tánh sáng suốt, tỉnh 
								thức nên tâm ít vọng động, thường trong sáng, 
								bén nhạy, vi tế. Người có tánh giác hợp với niệm 
								sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật thực bất tịnh, 
								phân tích tứ đại vì sự trong sáng, bén nhạy và 
								vi tế của tâm hành giả có tánh giác dễ an trú 
								trong các đề mục vi tế nàỵ 
								
								Cả 6 tánh đều hợp với 6 đề mục kasiṇa: Đất, nước, 
								lửa, gió, ánh sáng và hư không. 
								
								Ị4) ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH và ĐỊNH CHỨNG: 
								
								1) 10 đề mục chỉ chứng cận định: 8 đề mục tùy 
								niệm: Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên, sự 
								chết, tịch tịnh và 2 đề mục: quán vật thực bất 
								tịnh, phân tích tứ đại chỉ giúp hành giả đạt 
								được cận định vì những đề mục này còn tư duy và 
								ngôn ngữ không thể vào sơ thiền. 
								
								2) 11 đề mục chỉ chứng sơ thiền: 10 đề mục tử 
								thi, 1 đề mục 32 thể trược chỉ giúp hành giả đạt 
								được sơ thiền, không thể sâu hơn vì những đề mục 
								này đòi hỏi phải duy trì tầm và tứ. Khi không 
								còn tầm tứ mới vào được nhị thiền. 
								
								3) 3 đề mục chỉ chứng đến đệ tam thiền: 3 đề mục 
								từ, bi và hỷ chỉ giúp hành giả chứng từ sơ thiền 
								đến tam thiền thôi vì đến tứ thiền thì đã có xả 
								thay thế. 
								
								4) 1 đề mục chỉ chứng tứ thiền: đề mục xả chỉ 
								giúp hành giả đạt được tứ thiền vì ở tứ thiền xả 
								mới thật sự xuất hiện mạnh mẽ. Thực ra ở các bậc 
								thiền khác đều có xả nhưng chưa đủ mạnh. 
								
								5) 11 đề mục chứng tất cả thiền sắc giới: 10 đề 
								mục kasiṇa, 1 đề mục hơi thở có thể giúp hành 
								giả chứng được từ sơ thiền đến tứ thiền sắc giới 
								vì những đề mục này rất cụ thể, rõ ràng và ổn 
								định hơn các đề mục khác nên không đòi hỏi phải 
								tin tưởng hay suy luận gì cả nhờ vậy tâm dễ 
								chuyên nhất hơn. 
								
								6) 4 đề mục chứng 4 bậc thiền vô sắc tương đương: 
								sau khi đã đạt được đệ tứ thiền hữu sắc hành giả 
								sử dụng 4 đề mục tưởng không làm đối tượng để 
								chứng đắc 4 thiền vô sắc. 
								
								- Đề mục “hư không là vô biên” chỉ giúp hành giả 
								chứng không vô biên xứ thiền. 
								
								- Đề mục “thức là vô biên” chỉ giúp hành giả 
								chứng thức vô biên xứ thiền. 
								
								- Đề mục “không có gì cả” chỉ giúp hành giả 
								chứng vô sở hữu xứ thiền. 
								
								- Đề mục “vắng lặng, vi tế” chỉ giúp hành giả 
								chứng phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền. 
								
								Ị5) NĂM TRIỀN CÁI (Nīvaraṇa): Năm pháp này làm 
								trở ngại và che lấp tâm định nên còn gọi là pháp 
								chướng ngại: 
								
								1) Tham dục (kāmacchanda): tâm sở tham dục có 
								trạng thái ưa thích, đam mê, ham muốn, dính mắc 
								trong ngũ dục làm cho tâm phân tán khó tập trung. 
								Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại cho 
								tâm định. 
								
								2) Sân hận (byāpāda): tâm sở sân có trạng thái 
								bất mãn, bất bình, không hài lòng hay đối kháng 
								với cảnh chướng ngại trong quá khứ hoặc nôn nóng 
								muốn thoát khỏi nghịch cảnh, muốn khử trừ điều 
								kiện bất như ý trong hiện tại v.v... làm cho tâm 
								nóng nảy, khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền 
								định. 
								
								Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm trên đề mục 
								thiền bỗng nghe tiếng nhạc, nếu vì ưa thích mà 
								tâm bị phân tán đó là tham dục triền cái, nếu cố 
								chống lại tiếng nhạc mà tâm không chuyên chú 
								được đó là sân hận triền cáị 
								
								3) Hôn trầm - thụy miên (thīna – miha): tâm sở 
								hôn trầm có trạng thái lười chán, buông xuôi, 
								không hăng hái; tâm sở thụy miên có trạng thái 
								giãi đãi, trì trệ, ngái ngủ. Hai tâm sở này đồng 
								một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động 
								khiến cho tâm không thể chú hướng vào đề mục 
								thiền định được. 
								
								4) Trạo – hối (uhacca – kukkucca): tâm sở trạo 
								cử có trạng thái phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ, 
								nhất là về tương lai; tâm sở hối quá có trạng 
								thái nóng nảy, ray rứt, hối tiếc về những sai 
								lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm 
								lẫn với trạng thái ăn năn, hối cải thuộc tâm 
								thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất tháo 
								động, bồn chồn, bất an khiến cho tâm không an 
								lạc trên đề mục thiền định. 
								
								Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm được vài giây 
								thì tâm đã trượt khỏi đề mục, nếu do lười chán 
								hay giãi đãi mà không an lạc đó là triền cái hôn 
								trầm thụy miên, nếu do suy nghĩ vẩn vơ hay hối 
								tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là triền cái 
								trạo hốị 
								
								5) Nghi (vicikicchā): tâm sở nghi có trạng thái 
								lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này 
								làm cho tâm không đứng vững được trên đề mục 
								thiền định. 
								
								Hôn trầm thụy miên là tâm sở có trạng thái thụ 
								động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các 
								tâm hữu trợ (sasaṇkhārika). Trạo hối và nghi là 
								tâm sở có trạng thái dao động, làm cho tâm không 
								sáng suốt cho nên thay nhau có mặt trong hai tâm 
								sị 
								
								Ị6) NĂM THIỀN CHI (Jhānaṇga): năm tâm sở này là 
								thành tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự 
								năm triền cái: 
								
								1) Tầm (vitakka): là tâm sở có phận sự đánh thức 
								tâm chú hướng đến đề mục thiền định, giống như 
								con bướm tìm thấy một bông hoa và hăng hái bay 
								về huớng đó. Nhưng nếu tâm cứ bỏ rơi đối tượng 
								do trầm trệ, giãi đãi, giống như con bướm chưa 
								tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc, tức là 
								tầm chưa đủ tinh cần nỗ lực để vượt qua trạng 
								thái buông xuôi tiêu cực. Do vậy khi tầm có đủ 
								lực nhất hướng đến đối tượng thì hôn trầm thụy 
								miên bị chế ngự. 
								
								2) Tứ (vicāra): là tâm sở có phận sự giữ tâm 
								đứng vững trên đề mục thiền định, giống như khi 
								con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ 
								thăng bằng để đậu lại trên đóa hoa đó. Nhưng nếu 
								tâm chưa đứng yên trên đối tượng do còn lưỡng lự 
								bất quyết, giống như con bướm tuy đã đậu xuống 
								mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp chớp 
								đôi cánh chực bay, tức là tứ chưa vững để dừng 
								lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không 
								còn trạng thái phân vân do dự của nghị 
								
								3) Hỷ (pīti): là tâm sở có trạng thái phấn chấn, 
								hoan hỷ, sảng khoái trên đề mục thiền định, như 
								cảm thấy toàn thân rởn ốc (khuakā), chớp sáng (khaṇikā), 
								sóng đưa (okkanti), lâng lâng bay bổng (ubbega), 
								mát lạnh (pharaṇa), giống như khi con bướm đang 
								hứng thú thưởng thức mật hoạ Nhưng nếu tâm chưa 
								phát sinh hỷ do còn căng thẳng hay cố gắng quá 
								mức, giống như con bướm chưa hút được mật nên 
								chưa vừa ý. Khi tâm đã tìm thấy sự thích thú 
								hoan hỷ trên đề mục thiền định thì sân mới được 
								chế ngự. 
								
								4) Lạc (sukha): là tâm sở có trạng thái bình yên, 
								an ổn và thỏa mãn trên đề mục thiền định, giống 
								như con bướm đã hút mật đầy đủ, không còn bồn 
								chồn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng nữa, vì thế 
								lạc chế ngự được trạo hốị 
								
								5) Nhất tâm (ekaggatā): hay định là trạng thái 
								an chỉ, bất động trên đề mục, giống như con bướm 
								đã no đủ nằm yên ngơi nghỉ trên đóa hoa, không 
								ham muốn gì nữa, nhờ vậy tham dục được chế ngự.
								
								
								Ị7) CÁC BẬC THIỀN và CÁC CHI THIỀN: 
								
								1) Sơ thiền: Đầu tiên, hành giả chọn một trong 
								40 đề mục thiền định nói trên, rồi sau khi ngồi 
								thoải mái với thân thư giãn, tâm buông xả, vị ấy 
								tinh tấn hướng tâm tiếp cận đối tượng, không quá 
								cố gắng, cũng không lơ là, chỉ cần vừa đủ để tâm 
								vượt qua trạng thái hôn trầm thụy miên, không 
								còn lười biếng giãi đãi thì có thể chú hướng 
								vững vàng về phía đối tượng ấy, đó là trạng thái 
								tầm. Khi đã không còn luời biếng bỏ rơi đối 
								tượng, tâm bắt đầu tìm cách áp sát trên đối 
								tượng, tâm hành giả đã lấy lại được thăng bằng, 
								không nghi hoặc, không phân vân do dự nữa, đó là 
								trạng thái tứ. Nhờ tâm thăng bằng, không nghi 
								hoặc đã cảm giác được sự vui thích, hứng thú 
								trên đối tượng, không còn bực bội, chán nản hay 
								sân hận nữa, đó là trạng thái hỷ. Sự hoan hỷ, 
								phấn khởi này lắng dịu dần, để lại một sự bình 
								an, tĩnh lặng, không còn một gợn sóng của dao 
								động bất an, đó là trạng thái lạc của thiền. Đến 
								đây tâm đã có thể an trú, tĩnh chỉ, nhất tâm và 
								hoàn toàn quân bình (xả), không còn khởi lên một 
								tham muốn nào đối với ngũ dục. Đó là trạng thái 
								nhất tâm hay an chỉ định. Với những trải nghiệm 
								trên, hành giả đã chứng sơ thiền sắc giới, tâm 
								vị ấy có đủ năm thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, 
								nhất tâm. Sơ thiền được Đức Phật mô tả là trạng 
								thái “ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền 
								thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có 
								tầm có tứ”. 
								
								2) Nhị thiền: Khi hành giả đã thuần thục trong 
								sơ thiền, có thể nhập xuất dễ dàng, nếu vị ấy 
								không quá thỏa thích đến nỗi bám víu trong thiền 
								chứng này, thì hoặc là vị ấy cố gắng từ bỏ tầm 
								và tứ vì thấy chúng còn thô, hoặc do tâm định 
								tiến triển hành giả tự động vượt qua hai chi 
								thiền này một cách dễ dàng để vào tâm thiền thứ 
								haị Nhị thiền chỉ còn lại ba chi: hỷ, lạc, nhất 
								tâm, được Đức Phật mô tả là trạng thái “diệt tầm 
								tứ, chứng trú thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc 
								do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất 
								tâm”. 
								
								3) Tam thiền: Cũng trong chiều hướng phát triển 
								tốt của tâm định, hành giả thấy hỷ vẫn còn thô, 
								chưa hoàn toàn an tĩnh nên đã cố gắng vượt qua, 
								hoặc tâm định đủ sâu để vào thẳng trạng thái an 
								lạc vi tế của tâm thiền thứ ba, không cần qua 
								tầm, tứ và hỷ chỉ còn lại hai chi thiền: lạc, 
								nhất tâm, được Đức Phật mô tả là trạng thái “ly 
								hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc 
								thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, 
								chứng trú thiền thứ ba”. 
								
								4) Tứ thiền: Khi định sâu hơn nữa, vi tế hơn nữa, 
								thì ngay cả an lạc cũng được vượt qua, tâm hành 
								giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm, 
								tứ, hỷ, lạc, chỉ còn chi thiền nhất tâm. Vì nhất 
								tâm ở đây kiên cố hơn nhất tâm trong các bậc 
								thiền trước nên tâm hoàn toàn bất động, hoàn 
								toàn vô cảm đối với thế giới bên ngoài, vì vậy 
								trong tâm tứ thiền có yếu tố xả luôn xuất hiện 
								bên cạnh nhất tâm, và cũng vì vậy tứ thiền được 
								Đức Phật mô tả là trạng thái “xả lạc khổ, diệt 
								hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ 
								tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh”.
								
								
								5) Bốn thiền vô sắc: tuy có đối tượng và bậc 
								thiền khác nhau nhưng tâm vẫn có hai chi thiền 
								giống như tứ thiền hữu sắc là nhất tâm và xả.
								
								
								Ị8) TIẾN TRÌNH TÂM NHẬP ĐỊNH (Jhāna samapatti 
								vīthi): Khi hành giả đã nắm bắt được đề mục sơ 
								tướng (parikkamma nimitta) bên ngoài trở thành 
								thô tướng (uggha nimitta) trong tâm, vị ấy 
								chuyên chú hơn nữa trên thô tướng này cho đến 
								khi quang tướng (paṭibhāga nimitta) khởi lên, 
								nếu chú tâm đúng mức vào quang tướng này vị ấy 
								có thể đắc định, bấy giờ một tiến trình tâm nhập 
								định sẽ diễn ra như sau: 
								
								1) Hữu phần (bhavaṅga): trạng thái tiềm ẩn và 
								thụ động của tâm trôi qua khi đối tượng quang 
								tướng vừa mới xuất hiện. Kế đó là hai tâm sát-na 
								hữu phần: 
								
								2) Hữu phần rung động (bhavaṅgacalana) 
								
								3) Hữu phần dừng lại (bhavaṅgupacchea) 
								
								Đến đây lộ trình tâm mới thật sự khởi lên: 
								
								4) Ý môn hướng tâm (manovāravajjana): qua 3 
								sát-na của giai đoạn hữu phần, ý môn hướng tâm 
								khởi lên nắm giữ đối tượng quang tướng. 
								
								5) Chuẩn bị (parikamma): nếu việc nắm giữ đối 
								tượng vững vàng thì định chuẩn bị (parikamma 
								samādhi) phát sinh. 
								
								6) Cận hành (upacāra): tiếp theo tâm hành giả 
								đạt đến một trạng thái yên lặng gọi là định cận 
								hành (upacāra samādhi). Vì định cận hành không 
								vững chắc, còn thuộc tâm dục giới, nên đến đây 
								nếu tâm hành giả yếu thì chỉ giữ được một thời 
								gian ngắn rồi mất, không vào được định an chỉ.
								
								
								7) Thuận thứ (anuloma): nếu tâm hành giả đủ mạnh 
								thì sau trạng thái định cận hành tâm sẽ tự động 
								chuyển vào định an chỉ (appanā samādhi) thông 
								qua hai giai đoạn sau: 
								
								8) Chuyển tánh (gotrabhū): trước khi hoàn toàn 
								an chỉ tâm phải chuyển từ trạng thái dục giới 
								qua sắc giới thì mới hoàn toàn định được. 
								
								9) Thiền tâm (Jhānacitta): đến đây tâm đã hoàn 
								toàn an chỉ theo các bậc thiền sắc giới mà hành 
								giả chứng được, như sơ thiền, nhị thiền, tam 
								thiền hay tứ thiền. Thời gian an trú trong định 
								này lâu hay mau tùy vào sự thuần thục và sức 
								nguyện của hành giả. (Xem Ị9) 
								
								10) Hữu phần (bhavaṅga): sau đó tâm lại trở về 
								trạng thái hữu phần, chấm dứt một tiến trình tâm 
								nhập định. 
								
								Ị9) NĂM PHÁP THUẦN THỤC (vasī): Khi một hành giả 
								đã đắc định nếu không thuần thục thì không thể 
								nhập xuất định như ý muốn. Để có thể giữ trạng 
								thái định trong một thời gian như ý nguyện thì 
								hành giả phải hành 5 pháp sau đây cho đến khi 
								thuần thục: 
								
								1) Hướng tâm thuần thục (āvajjana vasī): ý môn 
								hướng tâm thuần thục trong việc nắm bắt quang 
								tướng (paṭibhāga nimitta). Một người đã thuần 
								thục thì ý môn hướng tâm có thể nắm bắt đề mục 
								quang tướng bất cứ lúc nào vị ấy hành thiền định.
								
								
								2) Nhập định thuần thục (samāpajjana vasī): khả 
								năng nhập định ngay lập tức một cách dễ dàng 
								không trở ngạị Khi đã thuần thục ở giai đoạn này, 
								ngay sau khi ý môn hướng tâm vừa nắm bắt đối 
								tượng thì hành giả có thể nhập định ngay không 
								chậm trễ. 
								
								3) Nguyện nhập thuần thục (ahiṭṭhāna vasī): 
								nguyện thời gian nhập định chính xác. Khi đã 
								thuần thục trong nguyện nhập, hành giả có thể 
								nhập định trong 1 giờ, 1 ngày hay 7 ngày v.v... 
								tùy theo ý muốn. 
								
								4) Nguyện xuất thuần thục (vuṭṭhāna vasī): 
								nguyện thời gian xuất định chính xác. Nguyện 
								nhập và nguyện xuất thường đi đôi với nhaụ Nếu 
								muốn, trước khi nhập định vị ấy nguyện rõ thời 
								gian xả định. Ví dụ, vị ấy nhập định lúc 7 giờ 
								tối, có ý muốn xả vào lúc 7 giờ sáng hôm sau thì 
								chỉ cần nguyện là được. 
								
								5) Hồi quán thuần thục (paccavekkhaṇa vasī): tốc 
								hành tâm quan sát lại các chi thiền đã chứng một 
								cách nhuần nhuyễn. Sự thuần thục trong việc hồi 
								quán này rất quan trọng vì nhờ đó hành giả biết 
								rõ mình đã chứng đến bậc thiền nào, có bao nhiêu 
								thiền chi, nếu không rất dễ nhầm lẫn mình đã đắc 
								những bậc thiền mà thật ra là chưa đắc hoặc 
								ngược lạị 
								
								Ị10) TỨ NHƯ Ý TÚC (ihipāda): Khi hành giả đã đạt 
								được tứ thiền hữu sắc một cách thuần thục thì có 
								thể sử dụng tứ như ý túc (hay tứ thần túc) để 
								phát triển thần thông. 
								
								1) Dục như ý túc (chand’ ihipāda): trước tiên 
								hành giả phải có nguyện vọng đạt đến một loại 
								thần thông nào đó, chẳng hạn như biến hoá thần 
								thông, thiên nhãn thông v.v... Nguyện vọng phải 
								tha thiết vì thiện ích cho mình và người thì mới 
								thực sự là dục như ý túc chân chính. 
								
								2) Cần như ý túc (viriy’ ihipāda): sau đó vị ấy 
								phải chuyên cần, nỗ lực thực hiện nguyện vọng 
								chính đáng của mình. Có nguyện vọng thiết tha 
								nhưng thiếu tinh cần đúng mức thì cũng trở thành 
								vô nghĩạ Nỗ lực quá đáng vì tham vọng quá sức 
								mình cũng chỉ phí công vô ích, nếu không nói là 
								chuốc lấy tai họa vào thân. 
								
								3) Tâm như ý túc (citt’ ihipāda): nhưng tinh cần 
								phải đúng chỗ nghĩa là chỉ giúp cho tâm chuyên 
								nhất một ý tưởng trước sau như một. Ví dụ vị ấy 
								muốn đất thành nước thì phải nhất tâm nghĩ đất 
								là “nước… nước…nước…” không thay đổi cho đến khi 
								ý tưởng đó trở thành hiện thực. Chính vì vậy, 
								nếu chưa đắc tứ thiền một cách thuần thục thì 
								chớ vội luyện thần thông. Nhiều người thiếu kiên 
								nhẫn, nhưng mong muốn sớm có thần lực đã phải 
								tập trung tâm để cầu tha lưc hỗ trợ, họ có thể 
								đạt được một số pháp thuật vay mượn nhưng đó 
								không phải là tâm như ý túc chân chính. 
								
								4) Thẩm như ý túc (vimaṃsā ihipāda): tuy nhiên 
								nếu vị ấy không đủ trí để thẩm sát vấn đề một 
								cách rành rẽ, tường tận thì cũng không thể đạt 
								được thần thông. Ví như người muốn làm một cái 
								bánh, tuy có cố gắng, có quyết tâm nhưng không 
								biết cách làm bánh thì chỉ hao tổn công sức mà 
								vẫn không có được bánh ngon. 
								
								Thực ra, bốn điều như ý này rất cần trong đời 
								sống hàng ngày của chúng tạ Khi làm một việc gì, 
								dù đơn giản nhất, trước tiên chúng ta cũng phải 
								khởi ý muốn làm việc đó (dục như ý), nhưng muốn 
								làm mà không có một chút cố gắng nào thì làm sao 
								thực hiện được, nên nỗ lực, hăng hái (cần như ý) 
								là điều kiện không thể thiếụ Tuy nhiên có cố 
								gắng mà không chuyên chú nhất tâm (tâm như ý) 
								thì vẫn chuốc lấy thất bạị Sau cùng, cho dù đã 
								chuyên nhất mà không hiểu biết, không rành rẽ 
								công việc một cách chu đáo (thẩm như ý) thì khó 
								mà hoàn thành công việc một cách như ý. Vì vậy 
								pháp này được gọi là bốn điều kiện để hoàn thành 
								mọi việc một cách như ý. 
								
								Ị11) NGŨ THÔNG & THẮNG TRÍ (abhiññā): Thần thông 
								là loại hình khoa học tâm linh đạt được nhờ một 
								sức mạnh nội tâm gọi là thắng trí, trí tuệ siêu 
								việt này phát sinh từ thiền định ở mức độ caọ 
								Hành giả sau khi đạt được tứ thiền, đã có những 
								pháp thuần thục, đã tu tập bốn điều kiện như ý 
								một cách đầy đủ, có thể đạt được năm loại thần 
								thông sau đây: 
								
								1) Thần túc thông (ihiviha abhiññā): hay biến 
								hoá thần thông là khả năng biến một thân thành 
								nhiều thân, tàng hình, độn thổ, bay trên hư 
								không, tự hóa mình hay hóa người khác ra thành 
								một vật nào đó như ý muốn v.v... 
								
								2) Thiên nhãn thông (dibba cakkhu abhiññā): hay 
								thần nhãn là khả năng thấy xa, thấy xuyên qua 
								tường, thấy dưới lòng đất (khác với thiên nhãn 
								minh là thấy rõ nhân quả nghiệp báo luân hồi 
								sinh tử của chúng sinh). Một số người tự nhiên 
								có khả năng này mà không hề trải qua quá trình 
								tu tập thiền định, nhưng đó là nhờ vào tha lực 
								bên ngoài chứ không phải là thiên nhãn thông 
								thật sự. 
								
								3) Thiên nhĩ thông (dibba sota abhiññā): là khả 
								năng nghe được tiếng nói từ xa, tiếng nói của 
								chư thiên hay những loài khác. Trường hợp một số 
								người thỉnh thoảng nghe tiếng ai đó báo trước 
								một sự việc sẽ xảy ra, hoặc có cảm giác như nghe 
								được nội dung câu chuyện luận bàn của người khác 
								từ xa thì đó có thể là do tha lực, nhưng phần 
								lớn là do bệnh hoang tưởng chứ không phải thiên 
								nhĩ thông. 
								
								4) Túc mạng thông (pubbe nivāsānussati abhiññā): 
								khả năng nhờ thiền định mà nhớ lại một số kiếp 
								trước của mình hay của người khác. Lúc còn bé, 
								một số người có thể nhớ lại kiếp trước của mình 
								nhưng khi lớn lên lại quên hết không nhớ gì cả. 
								Đó là sự tái hiện một số thông tin về tiền kiếp 
								từ kho vô thức (bhavaṅga) lúc tâm trí chưa bị 
								những thông tin mới phủ kín, chứ không phải là 
								túc mạng thông có từ thiền định. 
								
								5) Tha tâm thông (paracitta vijānana abhiññā): 
								khả năng đọc được tâm tư, ý nghĩ của người khác. 
								Trong một số trường hợp còn được gọi là ký 
								thuyết thần thông vì qua sự biểu hiện bên ngoài 
								của một người mà đọc được tư tưởng của người ấỵ 
								Nhưng nếu căn cứ vào nhân tướng mà đoán được vận 
								mệnh của một người thì không phải là tha tâm 
								thông. 
								
								Chúng ta cần lưu ý: thần thông khác với pháp 
								thuật. Thần thông do trình độ định tâm cao (từ 
								tứ thiền trở lên) và phát triển đúng hướng bằng 
								tự lực mà đạt được. Còn pháp thuật phần lớn đạt 
								được bằng cách cầu viện đến tha lực và không cần 
								phải đạt đến tứ thiền, đôi lúc chỉ cần niềm tin 
								hay cận định là đủ. 
								
								Ị12) LỢI ÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH: 
								
								1) An lạc hiện tại: hành giả đã thuần thục trong 
								việc nhập và xuất định có thể nguyện nhập bậc 
								định mà mình đã chứng để hưởng sự an lạc ngay 
								trong hiện tại, tạm thời thoát khỏi sự quấy rầy 
								của ngoại cảnh nên gọi là hiện tại lạc trú 
								(diṭṭhahamma sukha vihàrati). 
								
								2) Có thể chứng ngũ thông: hành giả đạt được tứ 
								thiền hữu sắc một cách thuần thục có thể sử dụng 
								tứ như ý túc để phát triển thần thông và chứng 
								được năm loại thần thông như đã nói trên. Về 
								phương diện giác ngộ giải thoát thì không cần 
								đến ngũ thông, nhưng nếu biết dùng làm phương 
								tiện lợi lạc quần sinh thì thần thông cũng trở 
								thành đại dụng. 
								
								3) Làm nền tảng cho thiền tuệ: hành giả có chứng 
								đắc định ở bất kỳ bậc thiền nào, sau khi xả 
								định, tâm còn an ổn trong sáng có thể hành thiền 
								tuệ một cách dễ dàng. Nhiều người có thể đạt 
								được tuệ giác một cách tự nhiên nhờ tâm đã thuần 
								thục trong định tĩnh sáng suốt và đầy đủ các 
								hạnh balamật. Mặt khác hành giả cũng có thể lấy 
								ngay tâm thiền hoặc thiền chi đang chứng làm đối 
								tượng thiền tuệ, như niệm thân là sắc ý căn, 
								niệm thọ là hỷ và lạc, niệm tâm như “nội tâm có 
								định tuệ tri tâm có định”, niệm pháp như khinh 
								an, định, xả giác chi v.v... 
								
								4) Các bậc Thánh có thể nhập thánh quả định: 
								hành giả đã chứng đắc định ở bất kỳ bậc thiền 
								hữu sắc hay vô sắc nào sau đó đắc một trong các 
								quả Thánh thì vị ấy có thể nhập thánh quả định 
								tương ứng để thể nhập tự tại Niết-bàn trong 
								Thánh quả định đó. 
								
								5) Bậc Anahàm trở lên có thể nhập diệt thọ tưởng 
								định: khi hành giả đã chứng đắc đến bậc thiền vô 
								sắc phi tưởng phi phi tưởng xứ định và đã chứng 
								quả Anahàm trở lên có thể nhập diệt thọ tưởng 
								định, nghĩa là trong thời gian nhập định này các 
								tâm, tâm sở, sắc pháp do tâm sinh bị diệt, chỉ 
								còn lại sắc pháp do nghiệp, thời tiết, vật thực 
								sinh mà thôị Đây là một loại định đặc biệt hoàn 
								toàn vắng lặng và bất khả xâm phạm của các bậc 
								thánh từ Anahàm trở lên mới có được. 
								
								6) Quả báu trong kiếp sau: nếu hành giả đắc định 
								nhưng chưa đắc quả Alahán thì sau khi thân hoại 
								mạng chung sẽ sinh lên các cõi trời sắc giới 
								hoặc vô sắc giới đặc biệt tương ứng với bậc 
								thiền mà mình đã chứng để hưởng quả định: 
								
								6a) Sắc giới thiền: 
								
								- Sơ thiền bậc hạ: Phạm chúng thiên 
								- Sơ thiền bậc trung: Phạm phụ thiên 
								- Sơ thiền bậc thượng : Đại phạm thiên 
								
								- Nhị thiền bậc hạ: Thiểu quang thiên 
								- Nhị thiền bậc trung: Vô lượng quang thiên 
								- Nhị thiền bậc thượng: Quang âm thiên 
								
								- Tam thiền bậc hạ: Thiểu tịnh thiên 
								- Tam thiền bậc trung: Vô lượng tịnh thiên 
								- Tam thiền bậc thượng: Biến tịnh thiên 
								
								- Tứ thiền của phàm phu: Vô tưởng thiên 
								- Tứ thiền của bậc Nhập Lưu và bậc Nhất Lai: 
								Quảng quả thiên 
								- Tứ thiền của bậc Bất Lai: Phước Sinh Thiên 
								
								+ Tín Bất Lai: Vô phiền thiên 
								+ Tấn Bất Lai: Vô nhiệt thiên 
								+ Niệm Bất Lai: Thiện hiện thiên 
								+ Định Bất Lai: Thiện kiến thiên 
								+ Tuệ Bất Lai: Sắc cứu cánh thiên 
								
								6b) Vô sắc giới thiền: 
								
								- Đệ nhất thiền : Không vô biên xứ thiên 
								- Đệ nhị thiền: Thức vô biên xứ thiên 
								- Đệ tam thiền: Vô sở hữu xứ thiên 
								- Đệ tứ thiền : Phi tưởng phi phi tưởng xứ 
								thiên. 
								
								Phật Giáo Nguyên Thủy không xem thiền định là 
								cứu cánh hay mục đích cuối cùng vì định chỉ có 
								thể chế ngự các triền cái, giúp ổn định tâm như 
								đá đè cỏ chứ không đoạn tận phiền não khổ đau, 
								không chấm dứt luân hồi sinh tử. Dù vậy định vẫn 
								được chấp nhận như yếu tố hỗ trợ cho tiến trình 
								Giới, Định, Tuệ đưa đến Đạo, Quả, Niết-bàn, vì 
								vậy, định có mặt trong nhiều pháp môn phẩm trợ 
								đạo: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ 
								căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạọ Định 
								cũng trở thành đại dụng trong những điều lợi ích 
								đã kể trên. 
								
								Tóm lại, thiền định, ở một mức độ nào đó, là rất 
								cần thiết, không thể bỏ qua, nhưng chưa phải là 
								yếu tố rốt ráo, nên chưa đủ để thành tựu cứu 
								cánh giác ngộ giải thoát.