| 
               Giờ đây xin 
              giản lược trình bày 
              Pháp Ngũ Uẩn, 
              theo như con được hiểu. 
              Thuở nọ có một 
              anh chàng hết lòng tự thương mình 
              và kinh sợ phiền não. Anh muốn được hạnh phúc, 
              loại hạnh phúc vượt khỏi mọi hiểm nguy, 
              và như thế anh mãi mãi thênh thang đi tìm. 
              Nơi nào người ta nói có hạnh phúc. 
              là anh khát khao nóng lòng muốn đến, 
              nhưng bước thênh thang quả thật xa xăm diệu vợi. 
              Anh là hạng người tự thương mình 
              và thật sự sợ hãi cái chết. Anh thật lòng muốn 
              thoát ra khỏi cảnh già và chết. 
              Rồi ngày kia anh chợt tỉnh hiểu thấu chân lý 
              loại bỏ nguyên nhân của đau khổ và 
              các pháp hữu vi. Anh tìm thấy 
              một hang động đầy kỳ quan, thần diệu phi thường, 
              hạnh phúc vô cùng tận -- tức là thân nầy. 
              Trong khi mê mệt ngắm nhìn hang động kỳ quan, 
              nỗi khổ đau của anh tan biến, cơn sợ hãi dịu dần. 
              Anh nhìn đi và ngắm lại quanh hòn núi, 
              chứng nghiệm an lạc vô biên. 
              Ngại ngùng nếu 
              đi gặp bạn bè và tường thuật câu chuyện, 
              họ sẽ bảo rằng anh khùng điên. Vì thế anh đơn độc 
              hưởng thụ tâm vắng lặng, từ bỏ ý định tiếp xúc 
              với ai khác, 
              còn hơn là thơ thẩn vẩn vơ 
              giữa những người chỉ trích chê bai 
              và những người tâng bốc tán dương khen tặng, 
              mệt mỏi và chán nản phiền muộn. 
              Nhưng rồi có 
              một người khác cũng sợ chết, 
              tâm hồn khô héo úa tàn và thất vọng. 
              Người ấy đến gặp tôi và thành thật 
              than thở với một giọng đáng thương. Anh nói, 
              "Từ lâu rồi Sư cố gắng hành thiền. 
              Vậy Ngài đã thấy được chưa 
              Giáo Pháp thật sự hằng mơ ước?" 
              (Ồ! Làm thế nào người nầy biết được tâm mình?) 
              Anh xin ở lại, và tôi đồng ý. 
              "Tôi sẽ đưa ông đến một hòn núi vĩ đại 
              với hang động kỳ quan huyền diệu tuyệt trần 
              không có khổ đau và ràng buộc: 
              chánh niệm thấm nhuần toàn thể châu thân. 
              Ông có thể ngắm nhìn nó trong khi nhàn rỗi 
              để làm mát dịu tâm hồn và chấm dứt ưu phiền. 
              Ðó là con đường của bậc Thánh Nhân. 
              Tùy ông đi cùng không, 
              Tôi không lừa gạt hay cưỡng bách, 
              chỉ nói cho ông biết sự thật là thế nào." 
              Thế rồi tôi hỏi đố ông vài câu bí ẩn: Trước tiên: 
              
              "Cái gì 
              chạy?" 
              
              "Cái gì nhanh 
              chóng chạy là vinnàna, thức. 
              Những tác động bước tới, từng hàng, 
              bước nầy kế tiếp bước kia. 
              Không nghi ngờ sannà, tưởng uẩn, tin chắc nó là 
              đúng, 
              nên tâm bị chụp lấy trong khi lăng xăng chạy tới 
              lui. 
              Tưởng, sannà, xông vồ tới, nắm chặt những 
              sự vật bên ngoài 
              rồi kéo lôi vào trong để phỉnh gạt cái tâm. 
              Làm cho tâm suy nghĩ mơ hồ và chạy ra ngoài tìm kiếm, 
              rồi lang thang lạc lối. 
              Sanna, tưởng, giống như một ảo cảnh, 
              lừa dối phỉnh gạt tâm với nhiều hình ảnh khác 
              nhau." 
              
              "Cái gì hoàn 
              toàn thoát khỏi ngũ uẩn?" 
              
              "Dĩ nhiên là 
              tâm, và duy nhất chỉ có tâm. 
              Tâm không nắm giữ hoặc rối loạn bị dính kẹt. 
              Không còn bị chất độc của quyền sở hữu, 
              không còn si mê, 
              đứng vững một mình. 
              Sannà, tưởng không còn có thể mê hoặc phỉnh 
              lừa 
              quyến rũ chạy theo." 
              
              "Khi nói có 
              sự chết, cái gì chết?" 
              
              "Sankhàras, 
              hành uẩn chết, diệt trừ hậu quả của nó." 
              
              "Cái gì cột 
              tâm vào vòng quanh?" 
              
              "Mánh khoé 
              quỷ quyệt của sannà, tưởng, quay cuồng tâm. 
              Tâm lạc lối vì tín nhiệm sannà, tưởng, 
              nên bị vướng trong những gì nó ưa thích, 
              rời cảnh giới nầy của chúng sanh, 
              rồi đi đến cõi kia, mãi mãi xoay tròn 
              cho đến khi choáng váng mặt mày, 
              tự quên hẳn mình, 
              tự hãm mình hoàn toàn trong đêm tối. 
              Dầu tận lực cố gắng cách nào để tìm Giáo Pháp 
              cũng không thể nhoáng thấy." 
              
              "Cái gì khám 
              phá ra Giáo Pháp?" 
              
              "Cái tâm khám 
              phá, 
              cố tìm cho ra tại sao sannà, tưởng, nói 'tốt' 
              và tâm chụp bắt điều 'xấu' 
              rồi cưỡng bách tâm tự trói chặt vào thương và ghét." 
              "Ăn một lần và 
              không bao giờ tìm ăn thêm nữa." 
              
              "Chấm dứt tình 
              trạng muốn nhìn, muốn hiểu biết, 
              và hy vọng muốn biết thêm, 
              Chấm dứt tình trạng kẹt dính trong rối loạn. 
              Tâm ngồi yên trên cái bệ của nó, 
              buông bỏ, không vướng mắc. 
              
              "Một cái hồ bốn vách, nước đầy 
              ngập đến miệng." 
              
              "Chấm dứt 
              ham muốn, loại bỏ hoài nghi, 
              trong sạch, không vướng bụi trần, và thoát khỏi 
              hiểm họa. 
              Sannà, tưởng, lắng đọng, sankhàra, hành, 
              không khuấy rầy. 
              Như thế ấy, tâm tràn đầy tới miệng, không gì 
              thiếu. 
              Yên tĩnh và vắng lặng, tâm không ý nghĩ buồn phiền: 
              điều đáng cho ta thích thú ngắm nhìn 
              ngày nầy qua ngày khác. 
              Dầu thọ lãnh hàng triệu kho báu ở cảnh trời 
              cũng không sánh bằng tình trạng hiểu biết thật sự 
              làm buông xả các hành, sankhàras. 
              Ðiều chánh yếu nòng cốt: chấm dứt tham vọng. 
              Nhãn hiệu nằm trong phạm vi của nó 
              và không xen vào can thiệp. 
              Cái tâm, không say mê với bất luận gì, 
              chấm dứt mọi tranh đua. 
              Cũng như ta lấy mặt gương 
              và nhìn phản ảnh của mình trong đó: 
              Không nên bám níu vào sannà, tưởng, 
              nó cũng giống như hình ảnh của ta trong mặt gương. 
              Không nên để những vấn đề của hành, sankhàra, 
              nhiễm độc. 
              "Khi tâm hoạt động, ta có thể nhìn thấy 
              cái tâm chính thật, không giả mạo. 
              Ta biết chắc rằng sự di động nằm bên trong mình 
              vì nó đổi thay, biến chuyển. 
              Tình trạng thay đổi vô chừng 
              là tính chất của tâm, 
              Không cần phải chỉ trích ai khác. 
              Ta biết những loại uẩn khác nhau 
              trong sinh hoạt của tâm. 
              "Trước đây 
              tôi ngỡ rằng tưởng, sannà, là tâm, 
              cái tâm dán nhãn đặt tên 'bên trong' và 'bên ngoài', 
              vì lẽ ấy tôi bị lừa gạt. 
              Giờ đây biết rằng tâm đảm trách nhiệm vụ, 
              không còn phân vân, 
              không hy vọng nương tựa vào bất luận sannà, tưởng, 
              nào. 
              Bất cứ gì phát sanh và hoại diệt 
              không cần phải làm chủ 
              hoặc cố gắng ngăn ngừa nó." 
              
              "Cũng dường 
              như leo tận đỉnh cao 
              của một ngọn núi thật sự khổng lồ 
              và 
              nhìn trở xuống vùng đồng bằng phía dưới, 
              thấy mọi chúng sanh." 
              
              "Từ trên cao 
              ngất trời nhìn trở xuống 
              Ta thấy tất cả mọi sự việc của ta 
              từ lúc sơ khai, 
              cấu thành một con đường, 
              giống như những nấc thang." 
              "Thủy triều của 
              một con sông -- nước ròng rồi nước lớn -- 
              có hợp với Chân Lý không?" 
              
              "Ta không thể 
              sửa đổi tình trạng biến chuyển đổi thay 
              của sankhàra, hành. 
              Do nghiệp uốn nắn, 
              nó ra đời, không phải để làm cho ai phiền muộn. 
              Nếu ta nắm giữ lại 
              để đẩy nó đi đầu nầy đầu kia, 
              tâm phải trở thành ô nhiễm và lầm lạc. 
              Chớ nên nghĩ đến việc kháng cự 
              đường lối thiên nhiên của sự vật. 
              Hãy để cho cái tốt và cái xấu theo con đường của 
              chính nó. 
              Ta chỉ giản dị 
              tự giải phóng. 
              Không để vướng víu trong hành uẩn: 
              Ðó là trạng thái thanh bình và mát mẻ. 
              Khi hiểu biết chân lý, 
              ta phải buông bỏ, để sankhàra, hành, trôi qua 
              vừa khi thấy sự biến chuyển của nó. 
              Khi đã mệt mỏi chán chê 
              ta sẽ để nó đi dễ dàng, không cần phải cưỡng bách. 
              Giáo Pháp mát mẻ. 
              Tâm sẽ dừng lại 
              vì phải chịu sự vật. 
              
              "Hoàn tất năm 
              nhiệm vụ?" 
              
              "Các uẩn phân 
              chia vấn đề 
              làm năm lãnh vực, 
              mỗi lãnh vực có những nhiệm vụ và phần việc của 
              nó. 
              không còn chỗ cho cái nào khác, 
              bởi vì hai tay nó đã đầy -- 
              không còn chỗ để nắm giữ 
              tài sản, địa vị, lời khen, hạnh phúc, 
              mất tài sản, mất địa vị, tiếng chê, đau khổ. 
              Ðể cho mỗi điều ấy theo bản chất thiên nhiên, 
              thích hợp với chân lý của nó. 
              Tâm không vướng mắc rối ren 
              với bất luận cái nào trong tám điều ấy, 
              vì sắc uẩn liên tục tạo cảnh già nua và bệnh 
              hoạn, 
              không ngừng. 
              Danh uẩn không bao giờ nghỉ ngơi. 
              Cả hai làm việc như cái máy 
              vì phải gánh chịu nghiệp quả 
              của những gì nó đã làm: 
              Những điều tốt làm cho nó say mê và hoan hỷ, 
              Ðiều xấu khuấy động và làm cho tâm tối đen, 
              luôn luôn phải suy tư 
              giống như đang bị lửa thiêu đốt. 
              Tâm bị ô nhiễm và ngu si đần độn. 
              Thương và ghét của nó 
              là những gì tự chính nó suy tưởng nghĩ đến, 
              vậy thì có thể trách móc ai? 
              "Ta có muốn 
              thoát ra khỏi cảnh già và chết không? 
              Ðiều ấy ngoài tầm mức có thể làm được, 
              cũng giống như muốn 
              tâm dừng bước thênh thang quanh quẩn và nghĩ suy, 
              muốn nó ở lại một nơi 
              và hy vọng tùy thuộc nương nhờ nơi sự đứng yên 
              của nó. 
              Tâm là cái gì biến chuyển, hoàn toàn bất định. 
              Sannà, tưởng, chỉ thỉnh thoảng dừng lại một 
              nơi. 
              Một khi ta trưởng thành trong sự hiểu biết bản 
              chất 
              của tất cả năm uẩn, 
              tâm sẽ sáng tỏ và trong sạch, 
              không ô nhiễm, không còn vấn đề. 
              Nếu có thể thấu hiểu như vậy, 
              đó là mức tối thượng, 
              vì ta đã thấy chân lý, 
              buông bỏ, rút ra khỏi, 
              và chứng ngộ giải thoát. 
              Ðó là mức cuối cùng của con đường. 
              Ta không kháng cự đường lối thiên nhiên -- 
              chân lý của sự vật. 
              Nghèo và giàu, tốt và xấu, 
              nối tiếp hàng dài theo diễn biến bên trong và bên ngoài, 
              tất cả đều phải trôi qua và tan biến. 
              Ta không thể nắm giữ lại bất luận gì 
              mà tâm nhắm đến. 
              "Giờ đây, khi cái tâm, vốn tự nó là vô chừng, 
              bất định 
              -- di động, nhanh chóng -- và ta chụp bắt được nó, 
              đó là khi ta đã tìm được thoải mái cùng tột. 
              Chuyện nhỏ che tối hiểu biết của ta về những 
              chuyện lớn. 
              Ngũ uẩn che tối Giáo Pháp hoàn toàn, 
              và vì lẽ ấy ta lạc nẻo. 
              Ta phung phí thì giờ 
              mãi ngắm nhìn ngũ uẩn mà không thấy Giáo Pháp. 
              Mặc dầu to lớn hơn ngũ uẩn, 
              Giáo Pháp, ta xem hình như cát bụi." 
              "Có đó, không đó. 
              Không có, nhưng vẫn có." 
              "Ðến đây tôi 
              hoàn toàn gặp khó khăn 
              và không thể hình dung tưởng tượng. 
              Xin Ngài vui lòng giải thích ý nghĩa của nó." 
              
              "Có sự ra đời 
              của những nguyên nhân và hậu quả khác nhau, 
              nhưng nó không phải là chúng sanh, 
              không tồn tại vững bền, 
              tất cả đều hoại diệt. 
              Ðiều nầy làm sáng tỏ 
              ý nghĩa của điểm thứ nhất: 
              Có đó, không đó. 
              Ðiểm thứ nhì, không có, nhưng vẫn có. 
              Ðoạn nầy hàm ý Giáo Pháp sâu xa, 
              mức cuối cùng của tam giới chúng sanh, 
              đến đây không còn sankhàra, hành 
              nhưng vẫn còn Giáo Pháp kiên cố, ổn định vững 
              bền. 
              Ðó là Giáo Pháp Kỳ Diệu Vô Song, đúng thật là vô 
              nhị. 
              Giáo Pháp là Một và không biến chuyển, 
              thù thắng hơn tất cả chúng sanh, vô cùng tĩnh lặng. 
              Ðó là đối tượng của cái tâm không chao động, 
              yên tĩnh và ngừng nghỉ, 
              vắng lặng và sáng tỏ. 
              Không còn bị mê hoặc, 
              không còn bị kích thích, 
              mọi tham vọng đều bị bứng nhổ tận gốc rễ, 
              không còn phân vân lưỡng lự, 
              những rối ren vướng mắc của nó với ngũ uẩn 
              tất cả đều chấm dứt và lắng dịu, 
              những phương tiện vào tam giới chúng sanh đều bị 
              bẻ gãy, 
              vứt bỏ quẳng đi lòng ham muốn tự phụ, 
              chấm dứt thương ghét, 
              không còn sở hữu, 
              tất cả phiền toái đều được chữa trị 
              đúng như tâm đã ước nguyện." 
              
              "Xin Ngài vui lòng 
              giải thích thêm con đường của tâm, 
              bằng một lối khác, 
              và nguyên nhân sanh đau khổ trong tâm 
              đã che lấp Giáo Pháp." 
              
              "Nguyên nhân 
              sanh đau khổ quả thật nhiều vô số kể, 
              nhưng chỉ giản lược tóm tắt. 
              Chính là tình thương 
              hằng bóp nhói cái tâm, 
              làm tâm bận rộn lo âu sợ hãi cho ngũ uẩn. 
              Nếu Giáo Pháp luôn luôn ở với tâm 
              ắt chấm dứt mọi luyến ái, 
              và không còn nguyên nhân tạo đau khổ: 
              Hãy nhớ điều nầy: đây là con đường của tâm. 
              Ta không cần chạy theo quay quần với nó 
              đến độ choáng váng mặt mày. 
              Cái tâm, khi không có Giáo Pháp cùng ở với nó, 
              sẽ bám níu vào, luyến ái điều gì nó thích, 
              lo sợ cho ngũ uẩn, 
              và chìm sâu trong nguyên nhân sanh đau khổ. 
              "Như vậy tóm 
              tắt, có đau khổ 
              và có Giáo Pháp 
              luôn luôn cùng ở với tâm. 
              Hãy quán tưởng, suy niệm điều nầy 
              cho đến khi thấy chân lý, 
              tâm sẽ hoàn toàn mát mẻ. 
              Tuy nhiên dù hạnh phúc và đau khổ 
              trọng đại to lớn đến đâu, 
              Nó không làm cho ta kinh sợ. 
              Không còn say sưa chìm đắm 
              trong nguyên nhân của đau khổ, 
              tâm sẽ suôn sẻ an lành. 
              Chỉ hiểu biết bấy nhiêu đó cũng đủ 
              làm dịu bớt cơn sốt trong lòng, 
              và an nghỉ trên đường tìm giải thoát. 
              Tâm hiểu biết Giáo Pháp quên đi 
              cái tâm luyến ái bụi trần. 
              Tâm hiểu biết Giáo Pháp dễ dàng 
              chắc chắn thấy rằng ngũ uẩn lúc nào cũng căng 
              thẳng. 
              Giáo Pháp vẫn là Giáo Pháp, 
              ngũ uẩn là ngũ uẩn, chỉ thế thôi. 
              "Còn câu 
              'mát mẻ, thoải mái và thoát khỏi cơn sốt' 
              hàm ý rằng tâm tự nó cứu lấy nó, 
              vượt ra khỏi cơn ghiền lầm lạc 
              [sửa chữa những vật khác]. 
              Hành uẩn, sankhàra, 
              không mang lại hạnh phúc nào 
              và thật sự là đau khổ, 
              bởi vì nó phải già, bệnh, và chết mỗi ngày. 
              Khi tâm hiểu biết Giáo Pháp tối thượng, 
              tâm tự rút tỉa những lầm lạc ô nhiễm 
              đã làm cho cơn bệnh càng trầm trọng thêm. 
              Lầm lạc ấy là một lỗi lầm trọng đại của tâm. 
              Nhưng khi thấy rõ Giáo Pháp, 
              tâm loại trừ lầm lạc, 
              và sẽ không còn chất độc trong mình. 
              Khi tâm thấy Giáo Pháp, 
              dồi dào tốt đẹp và thoát khỏi mọi lầm lạc, 
              gặp được Giáo Pháp, nó bỏ rơi lại tất cả những 
              sự vật 
              đã làm cho nó áy náy bồn chồn. 
              Tâm chú niệm và tự hay biết mình, 
              không vướng mắc rối ren bận rộn. 
              Tình thương đeo níu ngũ uẩn chấm dứt, 
              lòng ưa thích được chữa trị, 
              những mối lo âu không còn, 
              tất cả bụi trần đều phủi sạch. 
              Dầu tâm có suy tư theo đúng với bản chất của nó, 
              không nên cố gắng chận đứng nó lại. 
              Và khi ta không ngưng 
              nó sẽ không chạy nhảy hoang dại, 
              điều nầy tránh cho ta khỏi mọi khuấy động. 
              
              "Hiểu biết 
              rằng điều bất thiện sẽ đến 
              do tình trạng kháng cự chân lý." 
              
              "Bất thiện 
              pháp đến 
              vì ta không hiểu biết. 
              Nếu đóng chặt lại cánh cửa mở vào tình trạng 
              điên rồ đần độn, cuối cùng ắt có thoải mái dễ 
              chịu. 
              Tất cả điều ác dần dần im lặng, tuyệt đối yên 
              tĩnh. 
              Tất cả năm uẩn đều đau khổ, 
              không có hạnh phúc chút nào. 
              "Trước đây 
              tôi ngu si đần độn và ở trong tình trạng tăm tối 
              giống như sống trong một hang động. 
              Lòng ham muốn ước mong được thấy Giáo Pháp, 
              tôi cố gắng chụp bắt cái tâm và giữ cứng nó 
              lại. 
              Tôi chụp được và bắt những cái nhãn hiệu tâm linh 
              lòng ngỡ rằng đó là tâm 
              cho đến khi thành thói quen. 
              Tôi làm như thế trong một thời gian thật lâu, 
              say mê ngắm nhìn nó. 
              Những cái nhãn hiệu tinh thần giả mạo che mờ tâm 
              và tôi si mê đắm đuối chơi đùa 
              với các uẩn (khandha) -- 
              Quả thật đáng thương hại cho tôi! 
              thật tội nghiệp cho tôi! 
              "Tự mình 
              phấn khởi vô cùng tận, 
              Tôi đi quanh đi quẩn xét đoán người khác 
              nhưng không thành tựu được gì. 
              Nhìn lỗi của người khác 
              lòng đắng cay chua xót, 
              tựa hồ như chính mình tự thiêu đốt lấy mình, 
              và trở nên đen đúa như lọ nồi và cháy rụi. 
              Bất luận ai phải ai quấy, ai tốt ai xấu, 
              Ðó là chuyện của họ. 
              Công việc của chúng ta là giữ chắc 
              cho cái tâm tự canh chừng lấy nó. 
              Không nên để cho bất thiện pháp 
              lẩn quẩn khuấy rầy và ghé lại. 
              Hãy làm cho tâm thuần thục thiện xảo 
              trong phước báu và thiện nghiệp -- 
              hậu quả sẽ là trạng thái thanh bình an lạc. 
              Thấy người khác xấu và chính ta là tốt 
              là một vết nhơ tinh thần, 
              bởi vì ta đã tự khoá chặt vào khandha, ngũ 
              uẩn 
              và nó sẽ giữ lại vững chắc xét đoán ấy. 
              Nếu tự khóa chặt mình vào khandhas, ngũ uẩn 
              nó sẽ thiêu đốt ta, chắc như vậy, 
              vì tuổi già, ô nhiễm và chết chóc 
              sẽ xen nhập vào cuộc chiến: 
              đầy sân hận và tình thương, hiển nhiên là có lỗi 
              lầm, 
              lo âu, phiền muộn và sợ sệt, 
              trong khi ngũ dục, năm hình thức cảm xúc, 
              đem đạo binh nhiều loại khác nhau đến. 
              Ta không thoát được ra khỏi khổ đau và hiểm họa 
              bởi vì đã nắm chặt ngũ uẩn, xem đó là của ta. 
              Một khi thấy lỗi lầm của mình, chớ nên chần chờ. 
              Hãy bám sát canh chừng 
              trạng thái bất thường của sankhàras, hành. 
              Khi tâm đã quen thuộc với điều nầy, 
              ta chắc chắn sẽ thấy Giáo Pháp Vô Song 
              đơn độc trong tâm. 
              " 'Bất thường' 
              hàm ý là cái tâm 
              vì nó thay đổi nhãn hiệu. 
              Khi thấy điều nầy, hãy canh chừng, 
              lặp đi lặp lại canh chừng, 
              ngay vào lúc nó đổi thay. 
              Khi tất cả những đối tượng bên ngoài phai mờ, 
              Giáo Pháp sẽ xuất hiện. 
              Khi thấy Giáo Pháp, ta sẽ có khả năng chữa trị 
              chứng bịnh lo âu. 
              Chừng đó tâm không còn dính mắc vào cuộc tranh 
              chấp. 
              Chỉ bấy nhiêu chân lý cũng có thể chấm dứt trò chơi. 
              Hiểu biết cái không-hiểu-biết 
              Ðó là phương thức thực nghiệm cho cái tâm. 
              Một khi thấy được, qua tình trạng bất thường, 
              căn-nguyên-của-tâm ngưng tạo thêm vấn đề. 
              Tất cả những gì còn lại là cái tâm nguyên thủy, 
              chân tâm, cái tâm thật và không biến đổi. 
              Hiểu biết căn-nguyên-của-tâm 
              đưa đến giải thoát ra khỏi mọi lo âu và lầm lạc. 
              Nếu đi lệch ra ngoài, đến mục-tiêu-của-tâm 
              tức khắc ta lạc lối. 
              " 'Ðêm tối' 
              đến từ cái tâm 
              sở hữu chủ của những gì tốt đẹp. 
              Sở hữu nầy do mục-tiêu-của-tâm nghĩ đến. 
              Căn-nguyên-của-tâm đã là tốt 
              khi Giáo Pháp xuất hiện, xóa bỏ hoài nghi. 
              Khi thấy Giáo Pháp tối thượng, 
              vượt qua thế gian, 
              tất cả công trình tìm kiếm mơ hồ xưa cũ 
              bị đào bứng tận gốc rễ và buông bỏ. 
              Ðau khổ [duy nhất] còn lại là 
              nhu cầu ngủ nghỉ và ăn uống 
              theo đúng diễn tiến. 
              Tâm, được thuần hóa, ở gần căn-nguyên-của-tâm, 
              nghĩ suy, nhưng vẫn không ở chung với tư tưởng. 
              Bản chất của tâm là phải suy nghĩ. 
              Nhưng khi cảm nghe có căn-nguyên-của-tâm hiện hữu 
              thì nó thoát ra khỏi những buồn phiền, 
              cách xa những khuấy nhiễu, và tĩnh lặng. 
              Bản chất của sankhàra, hành, 
              khi xuất hiện 
              là biến tan. 
              Tất cả hành đều hoại diệt, không có gì còn lại. 
              Hãy coi chừng cái 
              tâm 
              khi ta tập trung lại để làm cho nó tế nhị hơn, 
              vì lúc ấy ta có khuynh hướng ép buộc, 
              nó dính cứng trong tình trạng không lay động. 
              Hãy để tâm nhìn đi nhìn lại 
              tính cách bất thường của nó, 
              cho đến khi trở thành một thói quen. 
              Khi ta đến giai đoạn ấy "Ồ!" 
              nó sẽ đến tự chính nó: 
              Hay biết giọng hát của tâm, 
              như một ảo cảnh. 
              Ðức Phật dạy rằng những ô nhiễm của tuệ minh sát 
              giả dạng như thật, 
              trong khi nó không thật chút nào. 
              Sự hay biết những hiện tượng tâm linh 
              tự chính nó đến, 
              là trực giác, cái thấy trực tiếp, 
              không giống như sự nghe và sự hiểu biết 
              trên tầng lớp vấn đáp. 
              Sự phân tách những hiện tượng, 
              tinh thần và vật chất, 
              cũng không phải là tri kiến tự chính nó khởi phát: 
              như vậy, hãy nhìn. 
              Sự hay biết tự nhiên chính nó đến 
              không phải là giọng hát của tư tưởng. 
              Hiểu biết căn-nguyên-của-tâm, 
              và những chặp tư tưởng, 
              chân tâm ấy giải thoát ra khỏi phiền muộn. 
              Căn-nguyên-của-tâm ấy chắc chắn 
              là sự tự động hiểu biết các sankhàras, hành. 
              -- những công việc của sự đổi thay -- 
              không phải là vấn đề phô trương ra ngoài 
              để thấy hay để hiểu biết một việc. 
              Nó cũng không phải là hiểu biết căn cứ 
              trên nhãn hiệu từng cặp. 
              Chính cái tâm tự hiểu biết 
              qua di động của bài ca. 
              Sự hiểu biết của tâm về di động 
              chỉ giản dị tiếp cận với những chặp tư tưởng. 
              Trong thực tế, chúng nó không thể bị phân chia: 
              Tất cả chúng nó là một và cùng một thứ. 
              Khi cái tâm là hai, điều đó được gọi là 
              những sự vật rối ren của tưởng, sannà. 
              Chính nó là bất thường, vậy tại sao tập trung vào gì 
              khác? 
              "Khi nhìn 
              thấy chính sự hoại diệt của nó 
              tâm thoát ra khỏi đêm tối. 
              Không còn muốn nếm hương vị của chúng 
              và từ bỏ hoài nghi. 
              Nó ngưng chạy tìm những vật bên trong và bên ngoài. 
              Buông bỏ mọi bám níu. 
              Xa lìa thương và ghét, 
              dầu nặng nhẹ thế nào. 
              Nó có thể chấm dứt những ham muốn, 
              những thảm sầu, tất cả đều tan biến 
              -- cùng với những gánh nặng lo âu 
              đã làm cho nó than van rên rỉ -- 
              giống như trận mưa rào tưới mát tâm hồn. 
              Chính cái tâm tự nó nhận thức tâm mát mẻ. 
              Tâm mát mẻ vì không có nhu cầu 
              đi thênh thang quanh quẩn, nhìn người ta. 
              Biết rằng căn-nguyên-của-tâm trong hiện tại, 
              không chao động và không lo âu 
              với bất luận điều tốt hay điều xấu, 
              vì tốt hay xấu tất cả đều hoại diệt, 
              với tất cả những trở ngại khác. 
              Tuyệt đối tĩnh lặng, căn-nguyên-của-tâm 
              không suy tư cũng không diễn dịch. 
              Nó chỉ ở với công việc của nó: không trông đợi gì, 
              không cần phải vướng mắc hay rối loạn, 
              không cần nơm nớp canh chừng. 
              Ngồi hoặc nằm, nó suy nghĩ 
              trong cái tâm-căn-nguyên: 'Ðã giải thoát'. 
              
              "Lối giải thích 
              của Ngài về con đường 
              quả thật thâm sâu, xuyên thấu, đầy đủ và rõ ràng. 
              Chỉ còn một điều nữa: 
              Xin Ngài vui lòng giải thích với chi tiết 
              cái tâm không giải thoát ra khỏi nguyên nhân của đau 
              khổ." 
              "Nguyên nhân của đau khổ là bám níu và thương yêu, 
              vô cùng quyến rũ, 
              tạo nên những trạng thái chúng sanh mới 
              không biết mệt, không nhàm chán. 
              ở mức độ thấp, ô nhiễm là 
              nhục dục ngũ trần; 
              ở tầng cao hơn, là dính mắc trong thiền (jhàna). 
              Nói về những điều nầy 
              hoạt động như thế nào trong tâm: 
              Tất cả là chuyện của chúng sanh say mê với sankhàra, 
              hành, 
              say mê với tất cả những gì xảy ra 
              trong một thời gian lâu, thật lâu dài -- 
              thấy nó là tốt đẹp, 
              nuôi dưỡng tâm bằng sự lầm lạc, 
              làm cho nó đâm chồi nở mộng 
              trong tình trạng mê loạn không yên. 
              Bị lỗi lầm cắn rứt mà không biết hổ thẹn, 
              say mê, khâm phục ngắm nhìn 
              bất luận gì nó tưởng tượng -- 
              say mê đến độ quên mình 
              và không sợ hiểm nguy; 
              say mê nhìn lỗi người khác, 
              bất mãn với những gì xấu của họ 
              còn lỗi của mình thì chẳng xem là gì cả. 
              Lỗi của người khác dầu to lớn đến đâu 
              không thể làm cho ta sa đọa địa ngục. 
              Trong khi đó lỗi của chính ta có thể đưa ta 
              thẳng xuống tầng địa ngục khắc khổ khốc liệt 
              nhất, 
              mặc dầu nó không phải là rất ô nhiễm. 
              Vậy hãy canh chừng xem lỗi của mình 
              cho đến khi tự nhiên thấy nó đến. 
              Tránh xa những lỗi lầm ấy 
              và chắc chắn ta thấy 
              hạnh phúc mà không có 
              hiểm họa và lo âu sợ sệt. 
              Khi rõ ràng nhận thấy những lỗi của mình 
              hãy cắt ngay tức khắc. 
              Chớ nên hơ hỏng hay chần chờ 
              không quyết tâm như vậy không bao giờ ta thoát khỏi nó. 
              "Không ngừng 
              muốn những điều tốt: 
              Ðó là nguyên nhân của đau khổ. 
              Ðó là lỗi lầm trọng đại: mãnh liệt kinh sợ điều 
              xấu. 
              'Tốt' và 'xấu' đều là thuốc độc của tâm, 
              như vật thực quá nhiều làm bất an cơ thể. 
              Giáo Pháp không rõ ràng sáng tỏ 
              vì lòng ham muốn điều tốt của ta. 
              Sự ham muốn điều tốt, khi quá mãnh liệt, 
              kéo lôi tâm vào những suy tư khuấy động 
              cho đến khi tâm đầy ngập điều xấu, 
              và tất cả những ô nhiễm của nó sanh nở nhanh chóng. 
              Lỗi lầm càng trọng đại, nảy nở càng nhanh chóng, 
              Kéo lôi ta càng xa và càng xa cách dần 
              Giáo Pháp nguyên thủy." 
              
              "Lối giải thích 
              nguyên nhân của đau khổ nầy 
              gọt giũa, thanh lọc tâm tôi. 
              [Mới đầu] ý nghĩa có vẽ 
              rời rạc và rối loạn, 
              nhưng khi Ngài giải thích con đường 
              thì tâm tôi ngưng, không lay động: 
              thỏa mãn, yên lặng và thanh bình, 
              đến cùng." 
              
              "Ðiều nầy 
              được gọi là thành tựu 
              tình trạng giải thoát ra khỏi ngũ uẩn, 
              Giáo Pháp vẫn ở yên một nơi, 
              không đến, không đi, 
              một bản chất thật sự -- chỉ duy nhất có một -- 
              mà không gì làm sai lệch hay quay vòng." 
              Ðến đây chấm 
              dứt câu chuyện. Ðúng hay sai, 
              xin vui lòng sáng suốt suy gẫm đến khi thấu hiểu.  |