|    
             | 
      
        
          Đức 
          Phật của chúng ta
          Tỳ 
          kheo Thích Minh Châu
           
          
          Lời giới thiệu. -- Đây là bài 
          thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một 
          đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật 
          của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì 
          mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt 
          ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn 
          thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức, 
          tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một 
          phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy. 
          -oOo- 
         
        Đề 
        tài thuyết giảng của chúng tôi hôm nay là: "Đức 
        Phật của chúng ta" chắc cũng làm cho một số Phật 
        tử ngạc nhiên. Chúng ta là Phật tử, thời đức Phật 
        của chúng ta là đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, còn cần gì 
        thêm mà phải thuyết giảng. Nhưng chúng ta cũng phải xác 
        nhận, chúng ta cũng có những cái nhìn, những quan điểm 
        lệch lạc về đức Bổn Sư của chúng ta, không đúng với 
        hình ảnh mà Đức Phật muốn chúng ta hình dung về Ngài cho 
        đúng Chánh Pháp. Cũng nhiều khi lòng tịnh tín của chúng ta 
        đối với Ngài chưa đạt đến bất động, còn bị hạn 
        chế rất nhiều. Lại thêm, có nhiều sự kiện chúng ta trích 
        dẫn từ những tài liệu không được chính xác về Đức 
        Phật của chúng ta và vì vậy, hình ảnh của chúng ta xây 
        dựng về Ngài cũng có rất nhiều thiếu sót gò bó. Do vậy 
        chúng tôi nghĩ, một đề tài thuyết giảng nói đến Đức 
        Phật mà chúng ta cũng là một vấn đề rất cần thiết và 
        nên làm. 
        Việc trước kia chúng tôi là 
        hạn chế các tư liệu mà chúng tôi sử dụng, chỉ từ kinh 
        tạng Pali mà thôi. Sự hạn chế này giúp chúng tôi loại 
        bỏ rất nhiều sự kiện có thể đi quá xa thời đại Đức 
        Phật còn tại thế, vào khoảng 100 năm sau khi Đức Phật 
        nhập diệt. Sự hạn các tư liệu chỉ trong kinh tạng Pali 
        giúp chúng tôi xây dựng hình bóng bậc Đạo sư của chúng 
        ta, vừa có một sự nhất trí trong vấn đề nội dung, vừa 
        diễn tả những hình ảnh tương đối trung thực về bậc 
        đại Đạo Sư của chúng ta. 
        Đề cập đến bậc Đạo Sư 
        của chúng ta, trước tiên, chúng ta cần nhấn mạnh đến 
        vị trí có một không hai của Đức Phật - vị trí này cho 
        chúng ta thấy không thể có một Đức Phật thứ hai trong 
        suốt hiền kiếp Đức Phật tại thế - vị trí này còn giúp 
        chúng ta nhận rõ những đóng góp gì của Đức Phật Thích 
        Ca Mâu Ni cho nhân loại, cho thế giới này thật là đặc 
        biệt vô song, có vậy, chúng ta mới đánh giá đúng đắn 
        sự xuất hiện rất đặc biệt của vị Bổn Sư của chúng 
        ta. 
        Kinh Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 
        37 ghi chép: "Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ 
        keo, không có được trong một thế giới có hai vị A la hán 
        Chánh đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một 
        lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy 
        ra, này các Tỳ-kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị 
        A la hán Chánh đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có 
        xảy ra". 
        Như vậy, chúng ta có thể nói, 
        trong hiền kiếp hiện tại, tại thế giới này, chỉ có 
        một Đức Phật, không có hai Đức Phật, có thể có 6 Đức 
        Phật quá khứ như Đức Phật Tỳ Bà Thi, Đức Phật Thi Khi 
        v.v... nhưng thuộc vào kiếp quá khứ, không thuộc kiếp 
        hiện tại; và có đức Phật Di Lặc (Maitriya), nhưng thuộc 
        vào kiếp tương lai, không thuộc kiếp hiện tại. Như vậy 
        vị trí của Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni thật là độc 
        nhất vô nhị, ngay trong tiền kiếp của thời hiện đại 
        của chúng ta, và ở trong thế giới mà hiện chúng ta đang 
        sống. Từ nơi vị trí Phật độc nhất vô nhị này, Kinh Tăng 
        Chi Bộ Kinh tập I trang 29 nói rõ thêm: 
        
          "Một người, này các 
          Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người 
          không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có 
          tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, 
          không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài 
          hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A la 
          hán, Chánh Đẳng giác; một người này khi xuất hiện ở 
          đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng 
          bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối 
          phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không 
          có đặt ngang bằng bậc Tối thắng giữa các loài hai chân". 
         
        Như vậy Đức Phật của chúng ta 
        không có một ai có thể sánh bằng, không có tương tự, không 
        có đối phần đưa chúng ta đến một vấn đề mới, đức 
        Phật đứng trên vị trí gì để trở thành một bậc tối 
        thượng ở đời không ai có thể sánh bằng, Trung bộ kinh 
        III, trang 110, nói lên địa vị tối thượng này của Sa môn 
        Gotama tức là Đức Phật của chúng ta. 
        
          "Không thể có một vị 
          Tỳ-kheo, này Ba-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, 
          một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn bậc A 
          la hán, Chánh đẳng giác đã thành tựu. Này Bà la môn, 
          Thế Tôn là bậc làm khơi dậy con đường trước đây chưa 
          được hiện khởi làm cho biết con đường trước đây chưa 
          được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện 
          xảo về đạo. Và này, các đệ tử là những vị sống hành 
          đạo và tùy hành, và sẽ thành tựu đạo quả". 
         
        Với đoạn kinh trên, chúng ta 
        thấy vị trí độc nhất vô nhị của đức Phật chúng ta. 
        Ngài là vị đã làm khởi dậy con đường giải thoát mà trước 
        đây chưa từng được ai làm cho khởi dậy; Ngài làm cho 
        biết con đường trước đây chưa từng được ai làm cho 
        biết; nói lên con đường trước đây chưa từng được ai 
        nói. Con đường ấy là gì? Chính là tiến trình giác ngộ 
        giải thoát mà chính tự Ngài đầu tiên khám phá ra, tự mình 
        tu tập con đường ấy và tự mình giải thoát giác ngộ 
        nhờ đã đi trên con đường ấy. Tiến trình ấy là một 
        tiến trình gồm có 5 giai đoạn bắt đầu từ "Giới, 
        rồi đến định, tuệ, giải thoát, và giải thoát tri 
        kiến". Con đường ấy đã được cô động một cách 
        tuyệt diệu thành con đường Thánh 10 ngành bắt đầu từ 
        (Bát chánh đạo: chánh tri kiến..., chánh định, thêm chánh 
        trí và chánh giải thoát). 
        Đoạn kinh sau đây, trong Trung Bộ 
        II, trang 211 A, xác nhận rõ hơn nữa vị trí đặc biệt ấy 
        của Đức Phật: 
        
          "Này Bharavaja, ở đây, các 
          vị Sa môn, Bà la môn ấy, đối với các pháp từ trưóc 
          chưa từng được nghe, tự minh chứng trí hoàn toàn pháp 
          ấy, tự nhận rằng về căn bản phạm hạnh đã chứng đạt 
          ngay hiện tại thượng trí và cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng 
          trí. Ta là một trong những vị ấy". 
         
        Từ nơi đây, chúng ta không còn 
        lấy làm lạ khi thỉnh thoảng Đức Phật rống lên tiếng 
        rống con sư tử, tiếng rống làm ngoại đạo hoảng sợ, 
        tiếng rống nói lên thế ưu việt của chánh pháp, như được 
        diễn tả trong Trung Bộ Kinh tập I, trang 63: "Này các 
        Tỳ kheo chỉ ở đây tức chỉ cho trong Pháp và Luật do Đức 
        Phậat thiết lập, chỉ ở đây là đệ nhất Sa môn, là đệ 
        nhị Sa môn, ở đây là đệ tam sa môn, ở đây là đệ tứ 
        Sa môn, các ngoại đạo khác không có Sa môn". 
        Tiếng rống con sư tử này xác nhận rằng chỉ có tiến trình 
        Giới, Định, Tuệ, giải thoát, giải thoát trì kiến, được 
        cô động trong con đường Thánh Đạo Mười ngành do Đức 
        Phật thiết lập mới đào tạo ra được các đệ nhất Sa 
        môn, tức là các vị Dự Lưu, các đệ nhị Sa môn tức là 
        các vị Nhất Lai, các đệ tam Sa môn tức là các vị Bất 
        Lai, các đệ tử Sa môn tức là các vị A la hán. 
        Từ nơi lời xác chứng có tính 
        chất quyết định dứt khoát này, chúng ta mới hiểu câu 
        trả lời của Đức Phật nói với Upaka, một du sĩ ngoại 
        đạo đã được hỏi đức Phật là ai, khi Đức Phật đi 
        từ Bồ Đề đạo tràng đến vườn Lộc Uyển, để 
        thuyết pháp lần đầu tiên cho Kiều Trần Như và 4 người 
        bạn. Khi Upaka gặp Đức Phật với các căn trong sáng, vị 
        tu sĩ ngoại đạo liền hỏi: "Các căn của hiền giả, 
        thật thanh khiết! Nay hiền giả! Vì mục đích gì hiền 
        giả xuất gia? Ai là bậc Đạo sư của hiền giả?". Đức 
        Phật liền trả lời với bài kệ: 
        
          
          "Ta không có Đạo sư, 
          Bậc như Ta không có. 
          Giữa thế giới nhân thiên 
          Không có ai bằng Ta". (Trung Bộ Kinh tập I, trang 171). 
         
        Câu trả lời này khiến chúng ta 
        nhớ đến câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc 
        tôn" được xem là đức Phật đã tuyên bố khi Ngài 
        đản sanh, và đi bảy bước. Và câu này cũng được diễn 
        đạt theo truyền thống Pàli với lời tuyên bố, như đã 
        được ghi trong Trường Bộ Kinh I trang 151: "Aggo ham 
        asmi lokassa, jettho' ham asmi lokassa; setto' ham asmi lokassa, Avam 
        antima jati natthi dàni puabban"'. Được dịch ra như 
        sau: "Ta là bậc tối tôn ở đời. Ta là bậc Trưởng 
        thượng ở đời. Ta là bậc tối thượng ở đời. Nay là 
        đời sống cuối cùng của Ta. Nay ta không còn tái sanh 
        nữa". Như vậy hai lời tuyên bố tuy từ hai truyền 
        thống khác nhau, nhưng cũng nói lên địa vị độc tôn của 
        đức Phật. 
        Đây không phải là một lời tuyên 
        bố ngạo mạn như có thể bị hiểu lầm. Lời tuyên bố này 
        cũng nói lên vị trí có một không hai của chánh pháp tức 
        là tiến trình giải thoát giác ngộ giới, định, tuệ, 
        giải thoát, giải thoát tri kiến. Chính tiến trình này đã 
        được Đức Phật thân chứng và dạy lại cho các đệ tử 
        Tỳ kheo, Tỳ kheo ni của Ngài tu học để được chứng 
        quả A la hán như Ngài. 
        Với Đức Phật, tự mình đã giác 
        ngộ, khi Ngài mới thành chánh giác. Ngài khởi lên một tư 
        tưởng rất khiêm tốn: 
        
          "Thật là khó khăn sống 
          không cung kính, không vâng lời. Vậy Ta hãy cung kính, đảnh 
          lễ và sống y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn. Với 
          mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa đầy đủ, làm 
          cho đầy đủ chưa định uẩn đầy đủ... Làm cho đầy 
          đủ tuệ uẩn chưa đầy đủ... Làm cho đầy đủ giải 
          thoát uẩn chưa đầy đủ. Ta hãy cung kính, đảnh lẽ và 
          sống y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn nào khác. Nhưng 
          ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác 
          ma và Phạm Thiên, giữa quần chúng Sa môn và Bà la môn, Chư 
          Thiên và loại người, không có một Sa môn hay Bà la môn nào 
          khác, với giới.. với định... với tuệ... với giải thoát 
          đầy đủ hơn Ta mà Ta có thể cung kính đảnh lễ và 
          sống y chỉ. Rồi này các Tỳ kheo. Ta suy nghĩ như sau: 
          'Với Pháp này mà Ta đã chơn chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính 
          đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy'." 
         
        Như vậy đức Phật với tâm tư 
        khiêm tốn muốn tìm một Sa môn để nương tựa y chỉ, nhưng 
        cuối cùng phải nương tựa y chỉ vào chánh pháp. Thái độ 
        này của Đức Phật giải thích vì sao đức Phật khuyên tôn 
        giả Ananda chớ có sầu muộn sau khi Đức Phật nhập diệt, 
        vì các đệ tử Phật luôn luôn có chánh pháp lãnh đạo, có 
        chánh pháp làm chỗ y chỉ, có chánh pháp làm chỗ nương 
        tựa. Đức Phật có thể xem là vị giáo chủ khuyên chúng 
        ta không nên nương tựa, ỷ lại cá nhân. Ngài chỉ khuyên 
        chúng ta nên y chỉ vào chánh pháp, nên nương tựa vào chánh 
        pháp. 
        Và như vậy, chúng ta thật không 
        lấy làm lạ khi Đức Phật được tôn xưng là bậc tối thượng 
        trong thế giới các loài hữu tình như kinh "Lòng 
        tin", số 34 , Tăng Chi II A trang 47, đã xác định: 
        
          "Dầu cho loài hữu tình 
          nào, này các Tỳ kheo, không chân hay hai chân, bốn chân hay 
          nhiều chân, có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng 
          hay phi tưởng phi phi tưởng. Thế Tôn bậc A la hán, Chánh 
          đẳng giác được xem là tối thượng. Những ai đặt lòng 
          tin vào đức Phật, chúng đặt lòng tin vào tối thượng. 
          Với những ai đặt lòng tin vào tối thượng, chúng được 
          quả dị thục tối thượng." 
         
        Từ nơi vị trí độc tôn này, chúng 
        ta cần phải tìm hiểu chính nơi đời sống của Ngài, 
        những kinh nghiệm gì trên bản thân Đức Phật đã giúp Đức 
        Phật đạt được những quả vị tối thượng. Nét độc 
        đáo ở nơi đây là những gì đức Phật giảng dạy đều 
        từ nơi bản thân kinh nghiệm của Ngai do tự Ngài thực hành 
        đem lại. Chớ không phải do tưởng tượng hay do một ai 
        truyền lại cho Ngài như đoạn kinh sau này nêu rõ, trong Tăng 
        Chi II, tập A trang 34 - 35, đức Phật, Đức Phật nói rõ 
        sự hiểu biết của mình như sau: 
        
          "Như vậy, này các Tỳ 
          kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng 
          không có tưởng tượng những gì cần phải thấy, không có 
          tưởng tượng đối với người thấy. Đã nghe những cái 
          gì cần nghe, nhưng không có tưởng tượng điều đã được 
          nghe, không có tưởng tượng những cái gì không được 
          nghe, không có tưởng tượng những gì cần phải nghe, không 
          có tưởng tượng đối với người nghe. Đã cảm giác 
          những cái gì cần cảm giác, nhưng không có tưởng tượng 
          nhiều điều đã được cảm giác, không có tưởng tượng 
          những cái gì không được cảm giác, không có tưởng tượng 
          đối với người cảm giác. Đã thức tri những cái gì 
          cần thức tri, nhưng không có tưởng tượng điều đã 
          được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì không 
          được thức tri, không có tưởng tưọng những gì cần 
          phải thức tri, không có tưởng tượng đối với người 
          thức tri. Như vậy này các Tỳ-kheo, Như Lai đối với các 
          pháp được thấy được nghe, được cảm giác, được 
          thức tri, nên vị ấy là như vậy. Lại nữa, người như 
          vậy, không có ai khác tối thượng hơn và thù thắng hơn. 
          Ta tuyên bố như vậy!". 
         
        Sau đây là những kinh nghiệm được 
        ghi lại về đời sống đầy dục lạc khi Đức Phật còn là 
        Thái tử, thái độ đức Phât đối với vấn đề sanh lão 
        bệnh tử va ba sự kiêu mạn của tuổi trẻ, không bệnh và 
        trọng sự sống. 
        
          "Này các Tỳ-kheo, Ta được 
          nuôi dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, 
          cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỳ-kheo, trong nhà 
          Phụ vương Ta, các hồ nước được xây lên, trong một 
          hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sẽ đỏ, trong 
          một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho Ta. Không 
          một chiên đàn nào Ta dùng, này các Tỳ-kheo, là không từ 
          Kàsi đến, bằng vải Kàsi là khăn của Ta, này các 
          Tỳ-kheo. Bằng vải Kàsi là áo cánh; bằng vải Kàsi là 
          nội y, bằng vải Kàsi là thượng y. Đêm và ngày, một 
          lọng trắng được che chở cho Ta, để tránh xúc chạm 
          lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu 
          đài được xây dựng cho Ta, một cho mùa đông, một cái 
          cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta này các Tỳ-kheo, 
          tại lâu dài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những 
          nữ nhạc công doanh vậy, Ta không có xuống dưới 
          lầu..." 
         
        
          "Với Ta, này các Tỳ 
          kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được 
          cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ rằng: 
          "Kẻ vô văn phàm phụ tự mình bị già, không vượt 
          qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực 
          phiền, hổ thẹn ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. 
          Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, khi ngưòi khác 
          già. Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như 
          vậy thật không xứng đáng cho Ta. Sau khi quan sát về Ta như 
          vậy, này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong 
          tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn". 
          "Kẻ vô văn phàm phu tự 
          mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người khác 
          bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên 
          rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt 
          qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, Ta có thể 
          bực phiền, hổ thẹn ghê tởm sao? Như vậy thật không 
          xứng đáng cho Ta. Sau khi quán sát về Ta như vậy này các 
          Tỳ kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh 
          được đoạn trừ hoàn toàn". 
          "Kẻ vô văn phàm phu, 
          tự mình bị chết, không vượt khỏi chết thấy người 
          khác bị chết, lại bực phiền hổ thẹn, ghê tởm, quên 
          rằng mình cũng vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua 
          khỏi chết, khi thấy người khác chết, Ta có thể bực 
          phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng 
          đáng cho Ta. Sau khi quán sát về Ta như vậy này các Tỳ 
          kheo, sự kiêu mạn của sự sống được đoạn trừ hoàn 
          toàn". (Tăng Chi I, 162 - 163). 
         
        Ở đoạn kinh trên chúng ta thấy 
        rõ đức Phật của chúng ta khi còn làm Thái tử, được hưởng 
        thọ dục lạc ở đời, nhưng không để cho các dục lạc 
        ấy làm cho say đắm si mê, vẫn ý thức được rằng sanh già 
        bệnh chết vẫn đang đe dọa nặng trên kiếp sống của con 
        người và như vậy đoạn trừ được ba sự kiêu ngạo 
        của tuổi trẻ trong tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh 
        trong không bệnh, kiêu mạn của sự sống trong sự sống. 
        Chính nhờ ở kinh nghiệm bản thân 
        về những dục lạc ở đời, chính nhờ quán sát sáng 
        suốt về thực trạng già, bệnh, chết của cuộc đời chính 
        mình và tất cả mọi người, nên đức Phật của chúng ta 
        vượt qua sự kiêu mạn của tuổi trẻ, của không bệnh, 
        của sự sống, để sau này từ bỏ tất cả, xuất gia tu đạo. 
        Khi Ngài đã quyết định từ bỏ 
        ngai vàng, châu báu, vợ đẹp con thơ, tầm đạo giải thoát, 
        chúng ta được nghe đức Phật của chúng ta kể lại sự 
        học đạo của Ngài với Alàra Kàlama và Udaksa Ràmaputta, hai 
        vị đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ và sau đây là kinh 
        nghiệm bản thân của đức Phật khi học đạo với Alàra 
        Kalama như kinh Thánh cầu, Trung bộ I, trang 164b đã khéo ghi 
        chép: 
        
          "Rồi này các Tỳ kheo, 
          sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, 
          đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng 
          son của cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước 
          mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà 
          sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta 
          xuất gia như vậy, đi tìm cái gì chi thiện, tìm cầu vô 
          thượng tối thắng an tịnh, hướng đến tịch tịnh. Ta 
          đến chỗ Alàra Kàlama ở, khi đến xong liền thưa với Alàra 
          Kàlama: "Hiền giả Kàlama, tôi muốn sống phạm hạnh 
          trong Pháp và Luật này". 
          "Này các Tỳ kheo, được 
          nghe nói vậy, Alàra Kàlama nói với Ta: "Này Tôn giả, 
          hãy sống (và an trú) Pháp này là như vậy, khiến kẻ có 
          trí, không bao lâu vị Bổn sư của mình chỉ dạy, tự 
          trị, tự chứng, tự đạt và an trú" Này các Tỳ 
          kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt Pháp ấy một cách 
          mau chóng... "Này các Tỳ kheo, Ta suy nghĩ như sau: 
          "Alàra Kàlama tuyên bố Pháp này không phải chỉ vì lòng 
          tin. Sau khi tự trị, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú. 
          Chắc chắn Alàra Kàlama biết Pháp này, thấy Pháp này 
          rồi mới an trú". 
          "Này các Tỳ kheo, rồi 
          Ta đi đến chỗ Alàra Kàlama ở, sau khi đến, Ta nói với 
          Alàra Kàlama: "Hiền giả Kàlama, cho đến mức độ nào, 
          Ngài tự trị, tự chứng tự đạt và tuyên bố Pháp này?" 
          Này các Tỳ kheo, được nói vậy, Alàra Kàlama tuyên bố 
          về vô sở hữu xứ. Rồi các Tỳ kheo, Ta suy nghĩ: "Không 
          phải chỉ có Alàra Kàlama có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. 
          Không phải chỉ có Alàra Kàlama mới có tinh tấn. Ta cũng 
          có tinh tấn. Không phải chỉ có Alàra Kàlama mới có 
          niệm. Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alàra Kàlama 
          mới có định. Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alàra 
          Kàlama mới có tuệ. Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng 
          chứng cho được Pháp mà Alàra Kàlama tuyên bố: "Sau 
          khi tự trị, tự chứng, tự đạt, Ta an trú" 
          "Rồi này các Tỳ kheo, 
          không bao lâu, khi tự trị, tự chứng, tự đạt Pháp ấy 
          một cách mau chóng. Ta an trú. Rồi này, các Tỳ kheo, Ta đi 
          đến chỗ Alàra Kàlama ở, sau khi đến, Ta nói với Alàra 
          Kàlama: "Này hiền giả Kàlama có phải hiền giả đã 
          tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến 
          mức độ như vậy" - "Vâng hiền giả. Tôi đã 
          tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến 
          mức độ như vậy" - "Này hiền giả, Tôi cũng đã 
          tự trị, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến 
          mức độ như vậy". "Thật khéo lợi ích thay cho 
          chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng Phạm 
          hạnh như tôn giả Pháp mà tôi tự trì, tự chứng, tự đạt 
          và tuyên bố, chính Pháp này hiền giả tự tri, tự 
          chứng, tự đạt và an trú; Pháp này hiển giả tự tri, 
          tự chừng, tự đạt và an trú; chính Pháp ấy tôi tự 
          tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà tôi biết, 
          chính Pháp ấy hiền giả biết; Pháp mà hiền giả biết, 
          chính Pháp ấy Tôi biết. Tôi như thế nào, hiền giả là 
          như vậy; hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy 
          đến đây, hiền giả! Hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng 
          này". 
          "Như vậy, này các 
          Tỳ-kheo, Alàra Kàlama là Đạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ 
          tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với 
          sự tôn tối thượng. Này các Tỳ kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: 
          "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến 
          ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến 
          an tịnh, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến 
          an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến 
          giác ngộ, không hướng đến Niết Bàn, mà chỉ đưa đến 
          giác ngộ, không hướng đến Niết bàn, mà chỉ đưa đến 
          sự chứng đạt vô sở hứu xứ" Như vậy, này các 
          Tỳ kheo, Ta không tôn kính Pháp này và chán nản Pháp ấy, 
          Ta bỏ đi". 
         
        Tiếp đến là nếp sống khổ 
        hạnh, Đức Phật của chúng ta tự mình hành trì luôn trong 
        sáu năm trên kinh nghiệm bản thân của Ngài, như đức 
        Phật đã diễn tả: "Này Sariputta, Ta đầy đủ bốn 
        hạnh: về khổ hạnh Ta khổ hạnh đệ nhứt; về bần uế, 
        Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất; 
        về độc cư, Ta độc cư đệ nhất" (Trung Bộ I, trang 
        76b). 
        Đoạn văn sau đây diễn tả 
        hạnh ăn ít của Đức Phật chúng ta, chính những hạnh này 
        khiến Thế Tôn gầy mòn chỉ còn da bọc xương, như đã 
        được diễn tả trong các bức tượng Tuyết Sơn, khắc ghi 
        lại sự khổ hạnh đặc biệt của Thế Tôn (trong kinh Sư 
        Tử Hống, Trung Bộ I, trang 80). 
        
          "Vì Ta ăn quá ít, tay chân 
          Ta trở thành những cộng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. 
          Vì Ta ăn quá ít, hàn trôn của Ta trở thành như móng chân 
          con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, cái xương sống phô bày 
          của Ta giống như một chuối banh. Vì Ta ăn quá ít, cái xương 
          sườn gầy mòn của Ta giống nư rui cột một nhà sàn hư 
          nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con người của Ta long lanh nằm 
          sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh 
          nằm sâu thẩm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn 
          quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí 
          đắng màu trắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm 
          cho nhăn nhíu khô cằn". 
          "Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: 
          "Ta hãy rờ da bụng", chính xương sông bị Ta nắm 
          lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống; chính da 
          bụng bị Ta nắm lấy vì ta ăn quá ít ". Này Sariputa, 
          nếu Ta muốn xoa dịu thân ta, lấy tay xoa bóp chân tay, 
          thời này Sariputta trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các 
          lông tóc hư mục rụg khỏi thân Ta, vì ta ăn quá ít". 
          Đức Phật của chúng ta đã tự mìn hành tri khổ hạnh, và 
          sau sáu năm hành trì không có kết quả, Ngài cương quyết 
          từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu hướng đến hành thiền 
          như đoạn kinh sau này nêu rõ: 
          "Này Aggivessana, rồi Ta 
          suy nghĩ như sau: "Thưở xưa có những Sa môn, Bà la môn, 
          và tương lai có những Sa môn, Bà la môn; và hiện tại có 
          những Sa môn, Bà la môn thình lình cảm thọ những cảm 
          thọ, những cảm giác chói đau, khổ đau, khốc liệt. 
          Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì 
          hơn nữa, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, trí 
          kiến thù thắng, xưng đáng bậc Thánh. Hay có đạo lộ nào 
          khác hơn đưa đến giác ngộ?". 
          "Này Aggivessana, rồi Ta 
          suy nghĩ như sau: Ta biết trong khi phụ thân Ta thuộc giòng 
          Sakka đang cày, và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây Diêm phù 
          đề. Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền 
          thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có 
          tầm có tứ. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này 
          có thể đưa đến giác ngộ chăng? Và này Aggivessana, 
          tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta. Đây 
          là đạo lộ đưa đến Giác ngộ" (Trung bộ I, trang 
          240b). Từ nơi kinh nghiệm bản thân này, Đức Phật của 
          chúng ta từ bỏ khổ hạnh, hành trì thiền định, chứng 
          được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền 
          thứ tư, chứng được túc mạng minh, thiên nhãn minh và 
          "với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không 
          cấu nhiễm, không phiền não, như nhuyễn, dễ sử dụng, 
          vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta hướng Tâm đến lâu 
          tận trí. Ta biết như thật: "Đây là khổ", Ta 
          biết như thật: "Đây là khổ tập". Ta biết như 
          thật: "Đây là khổ diệt". Ta biết như thật: 
          "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Ta 
          biết như thật: "Đây là các lậu hoặc", Ta biết 
          như thật: "Đây là lâu hoặc tập khởi". Ta biết 
          như thật: "Đây là lâu hoặc diệt". Ta biết như 
          thật: "Đây là con đường đưa đến lâu hoặc 
          diệt". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như 
          vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu 
          lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự tâm đã 
          giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã 
          giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, Phạm 
          hạnh đã thành, những việc nên đã làm, không còn trở 
          lại trạng thái này nữa" (Trung bộ I, 248a-248). 
         
        Như vậy, cùng với kinh nghiệm 
        bản thân, từ bỏ khổ hạnh, tu tập thiền định, phát 
        triển trí tuệ, bậc Đạo sư của chúng ta thành tựu chánh 
        đẳng chánh giác và trở thành đức Phật. 
        Sau khi thành đạo, đức Phật chúng 
        ta luôn luôn đi hoằng hóa, thuyết pháp độ sanh. Tuy vậy, 
        Ngài vẫn bị xuyên tạc hiểu lầm. Và Sunakkhatta đã hiểu 
        lầm về đức Phật của chúng ta như sau: "Sa môn 
        Gotama không có pháp thượng nhân, không có trì kiến thù 
        thắng, xứng đáng bậc Thánh, Sa môn Gotama thuyết pháp, pháp 
        ấy tự mình tạo ra, do suy luận tạo thành, tùy thuận 
        trắc nghiệm và thuyết cho mục tiêu đặc biệt, có khả năng 
        hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận 
        khổ đau' (Trung bộ I trang 69). 
        Đức Phật với nhận thức sáng 
        suốt của Ngài, chấp nhận phần hai của lời phê bình 
        của Sunakkhatta là đứng đắn, vì pháp Phật dạy, không do 
        ai dạy Ngài, chỉ do tự bản thân tu tập, chính do tự suy 
        luận, chính do tùy thuận trắc nghiệm của Ngài xây dựng lên, 
        và pháp ấy dạy cho một mục tiêu đặc biệt là đoạn 
        trừ khổ đau của chúng sanh, và có khả năng hướng thượng 
        giúp chúng sanh đoạn tận tham sân si, chấm dứt khổ đau. 
        Nhưng Đức Phật không chấp 
        nhận phần đầu lời phê bình của Sunakkhatta khi Sunakkhatta 
        nói Ngài không có pháp thượng nhân, không có trì kiến thù 
        thắng xứng đáng bậc Thánh. Ở đây, đức Phật mới 
        rống, tiếng rống con sư tử, xác nhận đức Phật có được 
        4 pháp truyền thống. Ngài là vị có đủ 10 danh hiệu là 
        Thế Tôn, bậc A la hán, chánh đẳng giác, minh hạnh túc, 
        thiện thệ, hiểu biết thế gian, bậc vô thượng, điều 
        ngự những ai đáng được điều ngự, bậc Thầy chư Thiên 
        và loài người, Phật, Thế Tôn. Và Ngài chứng được 
        thần túc thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông: 
        
          Như Lai là vị có được mười 
          Như Lai lực, có bốn vô sở úy. Như Lai như thật biết 
          sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra 
          là không xảy ra. Như Lai như thật biết quả báo tuỳ 
          thuộc sở do, tuỳ thuộc sở nhân của các hạnh nghiệp 
          quá khứ, vị lai, hiện tại. Như Lai như thật biết con 
          đường đưa đến tất cả cảnh giới. Như Lai như thật 
          biết thế giới với nhiều chủng loại sai biệt. Như Lai 
          như thật biết chí hướng sai biệt của một loài hữu tình. 
          Như Lai như thật biết các căn thượng hạ của loài người, 
          của các loài hữu tình; Như Lai như thật biết sự tập 
          nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các thiền 
          chứng về thiền và giải thoát, về định. Như Lai nhớ 
          đến các đời sống quá khứ; với thiên nhãn thuần 
          tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng 
          sanh Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc tự mình chứng 
          trí, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại, 
          vô lậu tâm giải thoát, tuệ tâm giải thoát. Chính nhờ mười 
          Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu 
          vương, rống lên tiếng rống con sư trong các hội chứng và 
          chuyển pháp luân (Trung bộ III, trang 70A- 71A). 
          Như Lai có được bốn vô 
          sở uý, tức là bốn điều không sợ hãi, chính nhờ thành 
          tựu bốn pháp này. Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu 
          vương, rống tiếng rống con sư tử trong hội chúng và 
          chuyển pháp luân: "Thế nào là bốn? Này Sariputta, Ta 
          thấy không có lý do gì, một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, 
          Ma vưong, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích 
          Ta đúng pháp rằng: "Các pháp này chưa được chứng 
          ngộ hoàn toàn mà Ngài tự xưng là đã chứng ngộ hoàn toàn." 
          Này Sariputta, vì Ta không thấy có lý do gì như vậy, nên 
          Ta sống, đại được an ổn, đạt được không sợ hãi, 
          đạt được vô uý. Này Sariputta, Ta không thấy có lý do gì, 
          một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay 
          một ai ở đời có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: 
          "Các lậu hoặc này chưa được đoạn trừ mà Ngài 
          tự xưng đoạn trừ...". Những pháp này được Ngài 
          gọi là các chướng ngại pháp, khi được thực hành 
          thời không có gì là chướng ngại pháp cả... Này 
          Sariputta, Ta thấy không có lý do gì một Sa môn, Bà la môn, 
          Chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có 
          thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: "Pháp do Ngài 
          thuyết giảng, không đưa đến một mục tiêu đặc biệt, 
          không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người 
          thực hành đến diệt tận khổ đau". Này Sariputta, vì 
          Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được 
          an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý 
          (Trung bộ I, trang 71 B). 
         
        Như vậy, với 4 pháp truyền 
        thống, với 10 Như Lai lực, với 4 vô sở úy, Đức Phật 
        của chúng ta xác chứng Ngài có pháp thượng nhân, có tri 
        kiến thù thắng của bậc Thánh, xứng đáng với địa vị 
        Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong các hội 
        chứng và chuyển pháp luân. 
        Đức Phật của chúng ta sở dĩ 
        chiếm một địa vị ưu thế so sánh với các ngoại đạo 
        đương thời là vì Ngài là vị đầu tiên để lại chúngta 
        một truyền thống kế thừa rất đặc biệt, khác với các 
        ngoại đạo cổ xưa, và truyền thống ấy mãi cho đến ngày 
        nay, sau hơn 2.500 năm có mặt trên thế giới này, vẫn còn 
        được tôn trọng, tiếp nối và truyền thừa. 
        Kinh Makhàdeva 83, Trung bộ kinh II 
        trang 75 đề cập đến truyền thống của vua Makhadeva, vị 
        vua này khi sợi tóc bạc đầu tiên hiện ra trên đầu của 
        Ngài, liền giao ngôi báu cho hoàng tử, tự mình xuất gia tu 
        đạo. Vua Makhedeva lại dặn hoàng tử lên ngôi trị vì cho 
        đến khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc lên thời liền trao 
        ngôi báu cho hoàng tử của mình, còn mình thời xuất gia tu 
        đạo. Vua Makhedeva lại dặn hàng tử lên ngôi trì vì cho đến 
        khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc lên thời liền trao ngôi báu 
        cho hoàng tửi của mình, còn mình thời xuất gia tu đạo. 
        Vua Makhedeva dặn dò phải giữ gìn truyền thống này đừng 
        cho gián đoạn. Tuy vậy, truyền thống của vua Makhadeva được 
        truyền cho đến khi vua Nemi là vị vua cuối cùng gìn giữ 
        truyền thống này, con của vua Nemi là Kalàrajanaka lại không 
        tiếp tục truyền thống này, không chịu xuất gia khi sợi tóc 
        đầu tiên mọc trên đầu của mình và do vậy truyền 
        thống của Makhàdeva bị chấm dứt. 
        Nhưng truyền thống của Đức 
        Phật của chúng ta lại khác. Chính Đức Phật xác nhận như 
        sau trong Trung bộ I trang 82A: 
        
          "Này Ananda, truyền 
          thống ấy của Makhàdeva không đưa đến yếm ly, ly tham, 
          đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn. 
          Và này Ananda, thế nào là truyền thống tốt đẹp được 
          Ta thiết lập và truyền thống ấy đưa đến yểm ly ly 
          tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, 
          Niết bàn? Chính là Thánh đạo tám Ngành này, tức là chánh 
          tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh 
          mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này Ananda, 
          đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập, và 
          truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, 
          tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết bàn. Này Ananda, 
          về vấn đề này, Ta nói như sau: "Truyền thống tốt 
          đẹp này do Ta thiết lập, hãy tiếp tục duy trì. Các người 
          chớ có thành tối hậu sau Ta". Này Anada, khi hai người 
          còn tồn tại, và có sự dứt đoạn, người ấy là người 
          tối hậu vậy. Này Ananda, Ta nói với người: "Truyền 
          thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, các người hãy 
          tiếp tục duy trì, Các người chớ có thành người tối 
          hậu sau ta" (Trung bộ II, 82 A). 
         
        Như vậy quí vị đã thấy 
        truyền thống kê thừa mà Đức Phật đã để lại cho chúng 
        ta, chúng ta đã tiếp tục thừa kế trải hơn 2.500 năm 
        lịch sử, và cho đến nay, truyền thống kế thừa ấy vẫn 
        được tiếp tục. 
        Để tìm hiểu hơn nữa về bậc 
        Đạo sư của chúng ta, chúng ta cần phải có một ý thức rõ 
        ràng, Đức Phật là ai, Đức Phật đã tự mình diễn tả 
        về mình như thế nào và Đức Phật đã được các đệ 
        tử của mình và các ngoại đạo đề cao như thế nào? 
        Những tư liệu đó sẽ giúp chúng ta hiểu được đức 
        Phật của chúng ta rõ ràng chính xác hơn và đánh giá được 
        những đóng góp mà bậc Đạo sư đã đem lại cho nhân 
        loại và cho Thế giới. 
        Một vấn đề có thể làm nhiều 
        người thắc mắc trong quá khứ cũng như trong hiện tại, là 
        đức Phật là ai? Ngài là thiên thần chăng? Thiên nhân chăng? 
        Ngài là người như chúng ta chăng? Kinh Tăng Chi tập II A 
        trang 51 ghi chép như sau: 
        "Bà la môn Dona thấy dấu chân 
        đức Phật có dấu bánh xe (Pháp Luân) với đầy đủ tất 
        cả chi tiết, khi Đức Phật đi trên con đường giữa 
        Ukkttha và Setabbya, liền suy nghĩ đây không phải là dấu chân 
        của loài người, nên đến gần đức Phật và hỏi: "Có 
        phải Ngài sẽ là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn thát bà, Ngài 
        sẽ là Dạ Xoa, Ngài sẽ là loài người?" Với bốn câu 
        hỏi này, Đức Phật tuần tự trả lời: "Ta sẽ không 
        phải là Tiên, Ta sẽ không phải là Càn thát bà, Ta sẽ không 
        phải là Dạ Xoa, Ta sẽ không phải là người? 
        Câu trả lời làm cho Bà la môn 
        Dona ngạc nhiên và chúng ta cũng dễ hiểu, vì nếu Đức 
        Phật trả lời: "Ta sẽ là chư Thiên... hay Ta sẽ là loài 
        người", tức là đức Phật còn phải tái sinh, còn 
        phải sinh tử luân hồi. Cho nên Đức Phật mới trả lời: 
        "Ta sẽ không phải là Chư Thiên, Ta sẽ không là Càn thát 
        bà, Ta sẽ không phải là Dạ xoa, Ta sẽ không phải là Người". 
        Những câu trả lời ây đã làm cho Bà la môn Dona ngạc nhiên 
        khiến phải hỏi tiếp: "Vậy sở hanh của Ngài là gì? 
        Và tôn giả sẽ là gì?". Câu trả lời tiếp của Đức 
        Phật rất là đặc biệt: 
        
          "Này Bà la môn, đối 
          với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có 
          thể là Chư Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận, được 
          chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây Ta-la, 
          được làm cho không thể hiện hữu được làm cho không 
          thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà la môn, đối với 
          những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là 
          Càn thát bà, Ta có thể là Dạ Xoa, Ta có thể là loài người, 
          với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt 
          từ gốc rễ, được làm thành như cây Ta la, được làm 
          cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh 
          khởi trong tương lai...". 
         
        Như vậy, tùy thuộc chúng sanh 
        được đề cập đến, đối với chúng sanh là chư Thiên chưa 
        đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật có thể là chư Thiên 
        nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận, không còn sanh tử 
        luân hồi. Đối với loài người chúng ta chưa đoạn tận các 
        lậu hoặc, Đức Phật có thể là người, nhưng là một con 
        người đã đọan tận các lậu hoặc. Nói một cách khác, 
        dầu thuộc loại chúng sanh hữu tình nào đang còn có lậu 
        hoặc, đang còn sanh tử luân hồi, Đức Phật có thể là chúng 
        sanh ấy, nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận. Chúng ta 
        là người, Đức Phật đối với chúng ta là người, chỉ có 
        sự sai khác: Đức Phật là ngưòi đã đoạn tận các lậu 
        hoặc. 
        Rồi Đức Phật cho chúng ta một 
        thí dụ xác định rõ ràng vị trí của Ngài trong thế 
        giới loài người: 
        
          "Ví như, này Bà la môn, 
          bôn sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, 
          lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và đứng 
          thẳng, không bị thấm ướt. Cũng vậy, Bà la môn, sanh ra 
          trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, 
          không bị đời thấm ướt. Này Bà la môn, Ta là Phật, hãy 
          như vậy thọ trì...". 
         
        Sau đây là một số lời tán thán 
        hay định nghĩa về bậc Đạo Sư của chúng ta, những lời 
        này được chính Đức Phật xác chứng: 
        
          "Này Sariputta, những ai nói 
          một cách chơn chánh về Ta, sẽ nói như sau: "Một vị 
          hữu tình không bị ai chi phối, đã sanh ra ở đời, vì 
          lợi ích, vì hạnh phúc của chúng sanh, vì lòng thương tưởng 
          cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư 
          Thiên và loài người" (Trung bộ I, 83). Tiếp đến là 
          lời vị đệ tử đã chứng quả A la hán nói lên lời tán 
          thán bậc đạo sư của mình: "Thế Tôn đã giác ngộ 
          Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều 
          phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã 
          tịch tịnh, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã 
          chứng Niết Bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết Bàn..." 
          (Trung bộ I, trang 237). 
         
        Sau đây là lời tán thán của Tôn 
        giả Udâyi đối với bậc Đạo Sư của mình: "Thế 
        Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng 
        ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp 
        cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ 
        nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là 
        vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta" (Trung 
        bộ I, trang 448). 
        Kinh Tăng chi I, trang 28, xác nhận 
        sự xuất hiện của bậc Đạo Sư của chúng ta là một sự 
        xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số: 
        
          "Một người, này các 
          Tỳ kheo khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại 
          hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng 
          cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư 
          Thiên, và loài người. Một người ấy là ai? Chính là 
          Thế Tôn, bậc A la hán. Chánh đẳng giác. Chính một người 
          này, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất 
          hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì 
          lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, 
          vì an lạc cho chư Thiên và loài người". 
          "Sự xuất hiện của 
          một người, này các Tỳ kheo, khó gặp được ở đời. 
          Của người nào? Của Như Lai, bậc A la hán, Chánh đẳng 
          giác. Sự xuất hiện cuả một người này, này các Tỳ 
          kheo, khó gặp ở đời". 
          "Một người này, này các 
          Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người 
          vi diện. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A 
          la hán, Cháng đẳng giác . Chính một người này, này các 
          Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là một sự xuất hiện 
          vi diệu". 
          "Sự mệnh chung của 
          một người, này các Tỳ kheo, được đa số thương 
          tiếc. Của một người nào? Của Như Lai, bậc A la hán, Chánh 
          đẳng giác. Sự mệnh chung của một người này, này các 
          Tỳ kheo, đươc đa số thương tiếc" 
         
        Trong khi các bậc Đạo sư khác, 
        giới không thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh, thuyết 
        pháp không thanh tịnh, trả lời pháp không thanh tịnh, tri 
        kiến không thanh tịnh, thời bậc Đạo sư của chúng ta 
        thật là tuyệt diệu về cả 5 phương diện này, như Tăng 
        Chi II, quyển B miêu tả: 
        
          "Này Mossallàna, Ta có 
          giới thanh tịnh và Ta tự rõ biết: "Giới của Ta 
          thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không 
          có che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh, Ta 
          tự rõ biết. Mạng sống của Ta thanh tịnh trong sáng, không 
          có uế nhiễm, các đệ tử không có che chở Ta về mạng 
          sống. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về 
          mạng sống. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ 
          biết. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh trong sáng, không có 
          uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp. 
          Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết 
          pháp. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, trong sáng, không 
          có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về các câu 
          trả lời. Ta không chờ đợi các đệ tử che chở Ta về 
          các câu trả lời. Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng, 
          không có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về 
          tri kiến. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta 
          về tri kiến". 
         
        Cuối cùng, chúng ta được nghe Đức 
        Phật của chúng ta nói đến sự ưu ái của Ngài đối với 
        các đệ tử của Ngài, một lòng ưu ái nhiệt tình chơn chánh, 
        luôn luôn hướng dẫn các đệ tử của mình trên con đường 
        giải thoát và giác ngộ: 
        
          "Này Ananda, những gì 
          vị đạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu tìm 
          hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được 
          Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với các người này, 
          này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng 
          trống. Hãy tu thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có 
          hối hận về sau. Đây là lời dạy của Ta cho các người". 
         
        Nói tóm lại, tìm hiểu và luận 
        bàn về đức Phật của chúng ta, thời không bao giờ có 
        thể chấm dứt, làm sao chúng ta có thể nói lên đầy đủ 
        thân thế sự nghiệp của vị Bổn sư chúng ta, nói lên về 
        tướng đức, giới đức, uy đức, trí đức và quả đức 
        của Ngài cho nên tôi xin kết luận bài giảng của chúng tôi 
        hôm nay với hai nhận xét mà chúng tôi xem là ưu việt, trong 
        sự nghiệp hoằng pháp dộ sanh cuả Đức Phật chúng ta. 
        Trước hết, Đức Phật của chúng 
        ta, dầu cho có chứng được thần túc thông, tha tâm thông, 
        thiên nhĩ thông, đã không dùng thần thông để giáo hóa chúng 
        sanh. Ngài lựa pháp môn giáo hóa để hóa độ chúng sanh. Nói 
        cho đúng hơn, Ngài dùng thần thông một cách hết sức dè 
        dặt, tế nhị, về hết sức kín đáo. 
        Trong suốt 45 năm thuyết pháp và 
        như chúng ta được thấy rõ ngang qua các bài kinh được để 
        lại, Ngài đi bộ từ làng này qua làng khác, từ thị trấn 
        này qua thị trấn khác, đi vào nhà, đi vào giảng đường, 
        đi vào hội chúng, với uy nghi bình thường của một bậc 
        Đạo sư đi truyền đạo và đi giảng đạo. Ngài không dùng 
        thần thông, phép lạ để làm hoa mắt, để làm choáng váng 
        những người đến với Ngài, Ngài chỉ dùng lời nói từ hòa 
        khiêm tốn, thuyết pháp độ sinh; Ngài chỉ dùng thân giáo và 
        khẩu giáo để giáo hóa chúng sanh. Cử chỉ, hành động 
        của Ngài khiêm tốn và tế nhị đến nỗi Pukkasati, một đệ 
        tử của Ngài, gặp Ngài mà vẫn không biết Ngài là Đức 
        Phật. Ngài tế nhị và khiêm tốn đến nỗi người giữ vườn 
        cho ba vị tôn giả Anuruddha, Kimbila và Ananda không biết ngài 
        là Đức Phật, đã ngăn cản Ngài không cho vào thăm ba vị 
        đại đệ tử của Ngài. 
        Chính thái độ hóa thần thông để 
        giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng 
        pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ 
        sanh. 
        Ưu điểm thứ hai trong sứ mệnh 
        hoằng pháp độ sanh của Đức Phật chúng ta là Ngài luôn 
        luôn giữ đúng vị trí của một bậc Đạo sư đối với các 
        đệ tử. Trong kinh Ganaka Moggalana, Trung bộ kinh, Bà la môn 
        Ganaka hỏi Đức Phật: "Có phải khi sa môn Gotama giảng 
        dạy như vậy, thời tất cả đệ tử của Ngài đều 
        chứng được cứu cánh Niết Bàn?" Đức Phật trả 
        lời là một số chứng được cứu cánh Niết Bàn, một 
        số không chứng được. 
        Đức Phật trả lời một cách 
        rất nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng rất thiết thực và 
        tuyệt diệu, giữ đúng vị trí của bậc Đạo sư đối 
        với các đệ tử: 
        
          "Cũng vậy, này Bà la môn, 
          trong khi có một Niết Bàn, có một con đường đưa đến 
          Niết Bàn và trong khi có mặt Ta là người chỉ đường. 
          Nhưng các đệ tử của Ta, được Ta khuyến giáo như 
          vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh 
          Niết Bàn, một số không chứng được. Ở đây, này Bà 
          la môn, Ta làm gì được? Như Lai chỉ là người chỉ đường". 
          (Trung bộ kinh III, trang 105). 
         
        Câu trả lời của Đức Phật chúng 
        ta nói lên trách nhiệm của một bậc Đạo sư là trình bày 
        giảng dạy con đường giải thoát giác ngộ chớ không 
        phải thay thế đệ tử tu hành giúp cho các đệ tử. Thái 
        độ của đức Phật trong tư cách của môt bậc Đạo sư cũng 
        nói lên lòng tin tưởng của mình đối với khả năng hiểu 
        biết và tu chứng của các đệ tử của mình. Ngài chỉ 
        dạy con đường, các đệ tử phải tự mình dấn bước trên 
        con đường ấy. Chính nhờ Đức Phật ý thức rõ ràng vị 
        trí của bậc Đạo sư và vị trí của người đệ tử, nên 
        Đức Phật đã thành công rực rỡ trong sứ mệnh hoằng pháp 
        độ sanh của Ngài. 
        Với hai nhận xét trên, chúng tôi 
        xin kết thúc bài giảng của chúng tôi hôm nay về bậc Đạo 
        Sư của chúng ta, với hy vọng rằng bài giảng của chúng tôi 
        giúp các Phật tử hiểu rõ hơn về sứ mệnh hoằng pháp độ 
        sanh cuả Đức Phật chúng ta, để chúng ta, những đệ tử 
        của Ngài, xuất gia cũng như tại gia, dầu đã trải qua 2500 
        năm lịch sử, vẫn tin tưởng và mạnh mẽ tiến bước trên 
        con đường giác ngộ va giải thoát mà bậc Đạo sư đã 
        giảng dạy./. 
        
        Nam mô 
        Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 
        Tỳ kheo Thích Minh Châu 
        Sài Gòn, ngày 12-12-1988 
         
        Chân thành cám ơn anh HDC đã có 
        thiện tâm giúp đánh máy lại quyển sách này (11/99).  |